THIẾT KẾ HỆ THỐNG BÀI TẬP TIẾNG VIỆT VỀ CÂU THEO QUAN ĐIỂM GIAO TIẾP




THEO QUAN ĐIỂM GIAO TIẾP
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Nói đến vấn đề đổi mới phương pháp dạy học, người ta thường đòi hỏi trang thiết bị hiện đại, phòng thí nghiệm, phương tiện nghe nhìn, v.v… và thường lại quên điều chính yếu nhất. Đó là sự đổi mới trong tư duy và cách dạy của người thầy, cùng sự chủ động hưởng ứng của người học. Từ ngàn xưa, Lão Tử đã nói: “Cái gì ta nghe ta quên, cái gì ta thấy ta nhớ, cái gì ta làm ta biết”. Phải tự mình làm mới biết. Gần đây hơn, các nhà  tâm lí giáo dục đã đúc kết :
CHÚNG TA NHỚ
NHỮNG GÌ TA
10 %
Đọc
20 %
Nghe
30 %
Thấy
50 %
Nghe và thấy (các phương tiện nghe nhìn)
80 %
Nói (đối thoại với thầy, thảo luận nhóm.v.v)
90 %
Nói và  làm điều chúng ta suy nghĩ (đóng kịch, sắm vai, thực tập trong phòng thí nghiệm hay hiện trường để áp dụng điều đã học.v.v)
(Nguyễn Thị Oanh – Bắt đầu từ người thầy - Tuổi trẻ chủ nhật số 47/2003)
Những số liệu trên cho chúng ta thấy các phương tiện nghe nhìn có thể giúp cho người học nhớ được 50 % nội dung kiến thức. Do đó, theo chúng tôi, vấn đề cốt lõi của đổi mới phương pháp dạy học là con người – nhân tố quan trọng của quá trình dạy học. Chính người học chủ động nói hay làm thì hiệu quả sẽ cao hơn nhiều. Với ý nghĩa đó, chúng tôi cố gắng thực hiện đề tài “Thiết kế hệ thống bài tập tiếng việt về câu theo quan điểm giao tiếp” với mong muốn thiết thực là góp phần định hướng cho bản thân và các đồng nghiệp thêm một cách tiếp cận trong quá trình dạy học tiếng Việt.
2. Mục đích nghiên cứu
Giúp giáo viên và học sinh nhận thức đúng về ý nghĩa và tác dụng của việc dạy học tiếng Việt theo quan điểm giao tiếp. Đây được xem là quan điểm cơ bản nhất trong việc tổ chức dạy học tiếng Việt ở nhà trường phổ thông. Quan điểm giao tiếp chi phối toàn bộ quá trình dạy học từ việc lựa chọn nội dung, phương pháp đến các hình thức dạy học giúp người học sử dụng được tiếng Việt trong hoạt động tư duy và hoạt động giao tiếp xã hội.
3. Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề lí thuyết của việc dạy học tiếng Việt theo quan điểm giao tiếp.
-       Thiết kế hệ thống bài tập tiếng Việt về câu trong sách giáo khoa Ngữ văn 11 hiện hành theo quan điểm giao tiếp.
Chương 1. Cơ sở lí luận chung
Bài tập tiếng Việt được coi như là một trong những đơn vị nội dung định hướng cho việc dạy học tiếng Việt. Thông qua việc thiết kế bài tập tiếng Việt và hướng dẫn học sinh làm bài tập của giáo viên, quá trình làm bài tập của học sinh, giáo viên có thể kiểm tra kết quả hoạt động dạy của mình, học sinh củng cố được những tri thức tiếng Việt vừa tiếp nhận và nắm vững các kĩ năng sử dụng tiếng Việt. Ngày nay, khi khoa học và xã hội đã xác định ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp "trọng yếu nhất của xã hội loài người" thì việc dạy học tiếng Việt càng gắn bó chặt chẽ với mục đích là hình thành và nâng cao khả năng giao tiếp cho học sinh. Điều này không chỉ còn là mục đích mà đã trở thành phương thức để dạy học tiếng Việt. Việc dạy học tiếng Việt phải quán triệt nguyên tắc hướng vào hoạt động giao tiếp; và do đó khi thiết kế bài tập tiếng Việt cũng cần phải có những định hướng cụ thể, nhất định dưới ánh sáng của lý thuyết hoạt động giao tiếp, theo phương pháp giao tiếp.
Theo quan điểm dạy học tiếng Việt hướng vào hoạt động giao tiếp, việc thiết kế bài tập tiếng Việt phải đảm bảo phục vụ cho việc phát triển khả năng giao tiếp cho học sinh. Dạy học tiếng Việt sử dụng phương pháp giao tiếp như là phương pháp tổ chức dạy học quan trọng nhất. Phương pháp giao tiếp là phương pháp hướng dẫn học sinh vận dụng lý thuyết được học vào thực hiện các nhiệm vụ của quá trình giao tiếp, có chú ý đến đặc điểm và các nhân tố tham gia vào hoạt động giao tiếp. Thực hành với bài tập tiếng Việt là một khâu trọng yếu có ý nghĩa quyết định đối với việc hình thành kĩ năng sử dụng tiếng Việt và ứng dụng tiếng Việt trong đời sống của học sinh. Bởi vậy, bài tập tiếng Việt khi được thiết kế dưới ánh sáng của lý thuyết giao tiếp sẽ thiết thực, hiệu quả hơn đối với giáo viên, học sinh phổ thông cũng như việc dạy học tiếng Việt nói chung. Khi thiết kế bài tập tiếng Việt, không nên lấy mục đích cung cấp và củng cố các tri thức ngôn ngữ học về tiếng Việt làm cơ bản mà mục đích chính cần xác định là nhằm củng cố cho học sinh vốn tri thức nhất định về tiếng Việt và kĩ năng sử dụng vốn tri thức ấy trong hoạt động giao tiếp. Trên cơ sở ấy, việc thiết kế bài tập tiếng Việt cần đảm bảo những định hướng cụ thể dưới ánh sáng của lý thuyết hoạt động giao tiếp như sau:
Trước hết, bài tập tiếng Việt phải gắn với hoạt động giao tiếp của học sinh. Cần đặt bài tập tiếng Việt trong những hoạt động giao tiếp cụ thể để quan sát, thể nghiệm, đồng thời sử dụng các đơn vị ngôn ngữ trong hoạt động hành chức để xây dựng các ngôn bản trong bài tập tiếng Việt. Những hoạt động giao tiếp cụ thể có thể là những tình huống giao tiếp học sinh có thể trực tiếp tham gia, có thể là những tình huống giao tiếp ngoài xã hội mà học sinh đủ khả năng nắm bắt. Lấy ví dụ trong dạy học từ ngữ tiếng Việt. Từ tiếng Việt trong hoạt động giao tiếp gồm 3 bình diện: ngữ âm và cấu tạo, nghĩa của từ, và chức năng của từ. Nghĩa của từ tiếng Việt được ghi trong từ điển là những nghĩa hết sức khái quát và trừu tượng. Thường thì nghĩa trong từ điển chỉ thể hiện được một trong ba thành phần nghĩa: nghĩa biểu vật, nghĩa biểu niệm, nghĩa biểu thái mà rất ít khi đảm bảo được cùng lúc cả ba thành phần nghĩa này. Dạy nghĩa của từ tiếng Việt cho học sinh, hướng dẫn học sinh mở rộng vốn từ không thể chỉ dạy bằng từ điển. Hệ thống bài tập tiếng Việt đặt từ trong hoạt động giao tiếp nhằm làm cụ thể các nét nghĩa của từ. Không thể đặt ra một bài tập tiếng Việt với yêu cầu: Hãy xác định nghĩa của từ "ăn" chung chung, mà phải là từ "ăn" trong một ngữ cảnh giao tiếp cụ thể, ví dụ:
ăn(1): Mẹ nói với các con: "Khi ăn cơm, các con không nên cười đùa!"
ăn(2): Người bán vé nói với mọi người ở cửa rạp chiếu phim:"Bộ phim này hiện đang ăn khách nhất đấy!"
ăn(3): Thông báo: 14 giờ, tàu Hạ Long cập cảng ăn than.
ăn(4): Bé Bi nói với bé Bống: "Con gái các cậu là chúa ăn gian".
Chỉ ở trong những tình huống cụ thể như vậy, từ tiếng Việt mới đơn nghĩa và nghĩa của từ mới có giá trị. Nghĩa của từ có giá trị là nghĩa trong hoạt động, nghĩa gắn với đặc điểm tâm lý của người phát ngôn ra từ, gắn với hiện thực khách quan và loại trừ được khả năng nhiều nghĩa của từ tiếng Việt.
Thứ hai, khi thiết kế bài tập tiếng Việt cho học sinh phổ thông cần phải tạo được tình huống kích thích nhu cầu giao tiếp và định hướng giao tiếp cho học sinh. Khi thiết kế bài tập tiếng Việt nên đưa ra những tình huống hấp dẫn, được các quan tâm và ham thích thảo luận, đưa ra những tình huống giao tiếp liên quan tới những vấn đề mang tính thời sự của xã hội, của địa phương. Có thể nói rằng: thiết kế một hệ thống bài tập tiếng Việt theo hướng giao tiếp là phải tạo ra được môi trường hợp lí và hấp dẫn để học sinh giao tiếp với nhau.Ví dụ, sách giáo khoa thí điểm Ngữ văn lớp 10, ban Khoa học tự nhiên, có một bài tập tiếng Việt:
"Hãy phát hiện và phân tích những điểm yếu của một số lời quảng cáo sau:
a) Quảng cáo sữa tắm:
Da dẻ mình cũng khác nhau. Da Hạnh nhăn như da người già. Còn da Hà khô như da rắn. Bọn mình dùng D.V trong 7 ngày… Mình thấy da mềm và không khô ráp như ngày trước nữa. Da Hạnh mượt như da trẻ con. Da Hà mềm như da em bé… Không tin à? Sờ thử coi!
b) Quảng cáo cà phê sữa:
Bài hát thật hay nhưng cà phê sữa của V. còn ngon hơn nhiều.
c) Quảng cáo mì ăn liền:
- Nếu có mì nào ngon hơn Kn, thì em sẽ thôi hát.
d) Quảng cáo kem đánh răng:
Kem đánh răng duy nhất, bảo vệ toàn diện, lâu dài nhất."
Đề tài quảng cáo là đề tài được xã hội quan tâm, ngôn ngữ và hình ảnh trong quảng cáo luôn tác động trực tiếp tới các giác quan của mọi người, đặc biệt là ở lứa tuổi học sinh. Tuy nhiên, khi thiết kế bài tập tiếng Việt có liên quan tới những đề tài nhạy cảm, ngôn ngữ chưa được trau chuốt, chọn lọc, người thiết kế cần có định hướng rõ cho học sinh biết nên góp nhặt và học hỏi những gì và nghi ngờ, chối bỏ những gì khi tiếp cận và sử dụng những ngữ liệu có trong giao tiếp xã hội đó.
Thứ ba, trong hệ thống bài tập tiếng Việt, cần phải chỉ rõ cho học sinh hướng giao tiếp khi tiến hành áp dụng các tri thức tiếng Việt sẽ thực hành nhằm định hình trước cho các em tác dụng của việc thực hiện các bài tập tiếng Việt trong hoạt động giao tiếp của bản thân. Điều này có nghĩa là: với một bài tập tiếng Việt cụ thể, sau khi thực hành, các em sẽ rút ra hoặc củng cố một tri thức tiếng Việt hoặc một kĩ năng sử dụng tiếng Việt cụ thể. Tri thức, kĩ năng ấy được các em sử dụng để nói và viết. Bài tập tiếng Việt được thiết kế dưới ánh sáng của lý thuyết hoạt động giao tiếp sẽ phải giúp các em định hướng được: nói (viết) với ai? về cái gì? trong hoàn cảnh nào?
Ví dụ: thiết kế hệ thống bài tập tiếng Việt cho phần dạy học về câu đặc biệt tiếng Việt nhằm giúp cho học sinh biết cách sử dụng câu đặc biệt trong cuộc sống. Các ngữ liệu được sử dụng khi thiết kế bài tập tiếng Việt nên là các câu đặc biệt như: "Vâng ạ.", "Dạ."… khi nói với người lớn tuổi hơn, các câu nói được hiểu là luôn kèm theo kiểu giao tiếp có văn hóa, trong những tình huống đặc biệt (các thông báo ở sân bay, nhà ga, văn phòng, biển quảng cáo). Các ngữ liệu phải thực tế, đảm bảo tính nghiêm túc, có văn hóa, học sinh có thể áp dụng ngay vào trong thực tiễn giao tiếp của bản thân một cách hiệu quả.
Cuối cùng, bài tập tiếng Việt cần chỉ ra những nhiệm vụ giao tiếp cụ thể để định hướng cho học sinh tạo lập những lời nói cụ thể. Khi thiết kế bài tập tiếng Việt cần quan tâm tới các mối quan hệ xung quanh học sinh, chỉ rõ cho học sinh nhiệm vụ và cách giao tiếp với từng đối tượng trong những hoàn cảnh, tình huống cụ thể. Ví dụ: Bài tập về việc tạo lập văn bản là những đoạn của một bức thư. Viết cho người lớn tuổi hơn, văn bản ấy đòi hỏi cần phải đảm bảo những bước nào, những nội dung thông tin gì. Viết cho bạn bè, văn bản ấy yêu cầu thực hiện những nhiệm vụ đó ở mức độ nào. Mặt khác, mục đích học tiếng Việt của học sinh rất cụ thể, bởi vậy, việc giúp cho học sinh tạo lập những ngôn bản cụ thể phục vụ cho mục đích học tiếng Việt của học sinh là rất cần thiết. Thiết kế bài tập tiếng Việt cần phải biết quan tâm đến điều này, bởi bản chất của tiếng Việt chỉ được thể hiện đầy đủ trong hoạt động giao tiếp, tức là trong ngôn bản với đầy đủ các mối quan hệ với các nhân tố tham gia vào hoạt động giao tiếp. Bài tập tiếng Việt phải phục vụ cho việc hiểu các ngôn bản thuộc loại chức năng ngôn ngữ nhất định mà học sinh quan tâm. Đối với học sinh tiểu học, nội dung làm văn quan trọng là miêu tả, kể chuyện thì bài tập tiếng Việt nên đưa các ngôn bản thuộc phong cách nghệ thuật làm ngữ liệu. Đối với học sinh ở bậc học cao hơn, việc sử dụng các ngôn bản thuộc phong cách nghị luận, phong cách khoa học - kĩ thuật làm ngữ liệu sẽ chiếm ưu thế.
Tóm lại, khi thiết kế bài tập tiếng Việt theo hướng giao tiếp, cần chú trọng các hoạt động tạo lập, lĩnh hội, sửa chữa, biến đổi các sản phẩm của hoạt động giao tiếp với các thao tác cụ thể như: tìm từ, phát hiện từ sai, so sánh, thay thế, chữa lỗi từ(đối với dạy học từ ngữ), đặt câu, mở rộng câu, rút gọn câu, tách câu, ghép câu, biến đổi câu, dựng đoạn(đối với dạy học ngữ pháp) Cần luôn luôn ý thức rằng các hoạt động và thao tác của học sinh khi làm bài tập tiếng Việt đều luôn hướng tới việc tạo lập các sản phẩm ngôn ngữ trong giao tiếp, lĩnh hội được các sản phẩm đó và cả đánh giá chúng nữa. Thiết kế được hệ thống bài tập tiếng Việt đảm bảo định hướng giao tiếp góp phần gây dựng niềm hứng thú học tập tiếng Việt cho học sinh, nâng cao hiệu quả của việc dạy học tiếng Việt trong nhà trường, đồng thời "gạn đục khơi trong" ngôn ngữ giao tiếp thông thường để thứ ngôn ngữ ấy khi đến với học sinh trong sáng như bản chất vốn có của tiếng Việt.
Ở trường phổ thông, Ngữ pháp tiếng Việt được dạy ngay từ các lớp dưới của bậc tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông. So với các lớp dưới, chương trình ngữ pháp tiếng Việt ở bậc phổ thông tập trung vào phần cú pháp, nghĩa là phần ngữ pháp ở bậc câu và ở lĩnh vực trên câu (văn bản). Trong phạm vi ngữ pháp ở bậc câu, chương trình ở trung học phổ thông (THPT) quan tâm đến nhiều bình diện khác nhau của câu.
-  Về bình diện cấu trúc: các đơn vị bài học trong chương trình Ngữ pháp tiếng Việt 11 ở bậc THPT không đi vào cấu trúc ngữ pháp của câu mà hướng vào thực hành luyện tập: thực hành một số kiểu câu trong văn bản, thực hành lựa chọn các bộ phận trong câu (Ngữ văn 11 cơ bản), luyện tập thay đổi trật tự các thành phần của cụm từ và các thành phần của câu , luyện tập về tách câu (Ngữ văn 11 – Nâng cao).
-  Về bình diện ngữ nghĩa: bên cạnh bài học lí thuyết về nghĩa của câu (Ngữ văn 11 cơ bản và nâng cao), chương trình ngữ pháp tiếng Việt ở bậcTHPT hướng vào thực hành luyện tập về nghĩa của câu, luyện tập về câu nghi vấn tu từ (Ngữ văn 11 – Nâng cao), thực hành một số biện pháp tu từ cú pháp, thực hành về hàm ý (Ngữ văn 12)
Điểm qua các đơn vị bài học về ngữ pháp ở bậc câu trong chương trình THPT chúng tôi nhận thấy rằng các đơn vị bài học đều hướng vào việc khảo sát và trình bày câu trong hoạt động hành chức của nó. Các đơn vị bài học về ngữ pháp tiếng Việt ở bậc câu không chỉ dừng lại ở việc nhận thức mô hình cấu tạo của câu như một cấu trúc tồn tại độc lập, tách rời khỏi mối liên hệ với hoàn cảnh giao tiếp, với những câu khác trong ngôn bản, mà còn khảo sát câu trong mối liên hệ với hoạt động hành chức. Việc dạy và học câu trong mối quan hệ hành chức của nó chính là phục vụ cho các mục tiêu của tiếng Việt: không chỉ cung cấp kiến thức, nâng cao nhận thức về các bình diện của câu, mà còn rèn luyện các kĩ năng tạo câu trong các hoạt động nói và viết, giúp người học có thể tạo lập câu vừa đúng với cấu tạo ngữ pháp bên trong, vừa thích hợp với việc thể hiện các nội dung ý nghĩa (nhận thức, tư tưởng, tình cảm) định biểu lộ, lại vừa phù hợp với hoàn cảnh giáo tiếp và các câu khác trong ngôn bản.
Mặt khác, theo quan điểm tích hợp trong chương trình và sách giáo khoa Ngữ văn, việc  dạy và học tiếng Việt, trong đó có phần ngữ pháp tiếng Việt, còn chú ý đến mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn học. Vì thế, việc dạy và học tiếng Việt còn nhằm mục đích bồi dưỡng năng lực phân tích, thẩm định các giá trị văn chương, để thấy được cái đẹp, cái hay của nó, đồng thời để lĩnh hội được hết các giá trị tư tưởng, tình cảm, lí tưởng thẩm mĩ của các tác giả và các tác phẩm nghệ thuật. Đó là phần ngữ nghĩa của câu và của văn bản nghệ thuật, trong đó có nghĩa hiển ngôn và hàm ngôn.
Việc gắn với chức năng thẩm mĩ của ngôn ngữ văn chương còn được thể hiện ở phần chương trình trình bày về sự lựa chọn trật tự sắp xếp các thành phần câu:  thực hành lựa chọn các bộ phận trong câu, luyện tập thay đổi trật tự các thành phần của cụm từ và các thành phần của câu, thực hành một số kiểu câu trong văn bản,…Chính những sự lựa chọn trật tự hoặc các cách thức sử dụng ấy nhằm tạo nên các sắc thái nghệ thuật khác nhau, tạo nên các giá trị biểu cảm hoặc tạo hình của ngôn ngữ nghệ thuật.
Dưới ánh sáng của lí thuyết về hoạt động giao tiếp trong dạy và học tiếng Việt, phần ngữ pháp tiếng Việt ở bậc câu trong chương trình THPT đều hướng về những vấn đề của câu trong hoạt động giao tiếp. Chính trong hoạt động giao tiếp, câu được hiện thực hóa trong các phát ngôn. Chính trong hoạt động giao tiếp, câu mới có sự biến hóa đa dạng về thành phần cấu tạo, về trật tự sắp xếp. Về mặt ngữ nghĩa, chính trong hoạt động giao tiếp, gắn chặt với hoàn cảnh giao tiếp, câu mới nảy sinh các ý nghĩa hàm ẩn sâu sắc bên cạnh nghĩa tường minh. Rõ ràng là với tư cách là một môn học về phương diện giao tiếp và nhằm vào mục tiêu nâng cao trình độ giao tiếp bằng ngôn ngữ, phần ngữ pháp tiếng Việt ở bậc câu trong chương trình Ngữ văn THPT hướng vào rèn luyện cho học sinh kĩ năng thực hành về câu trong hoàn cảnh giao tiếp, về ngữ nghĩa của câu…
Điểm qua các đơn vị bài học về câu trong chương trình Ngữ văn THPT, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các đơn vị bài học tiếng Việt đều được trình bày theo hướng quy nạp. Kiến thức mới được hình thành thông qua hoạt động tự tìm hiểu theo câu hỏi hoặc bài tập thực hành. Qua hệ thống câu hỏi dẫn dắt trong sách giáo khoa, học sinh chủ động và tích cực tìm đến kiến thức, luyện tập kĩ năng. Việc củng cố kiến thức, nâng cao và mở rộng kiến thức, kĩ năng cũng thông qua luyện tập, thực hành. Theo phương châm thực hành là phương châm chủ đạo. Qua thực hành mà hình thành kiến thức và kĩ năng, rồi cũng qua thực hành mà củng cố, nâng cao, mở rộng kiến thức và kĩ năng. Cho nên tỉ lệ hoạt động thực hành trong sách là rất cao. Điều này cũng phù hợp với nguyên tắc cơ bản trong dạy học tiếng Việt là nguyên tắc thực hành giao tiếp, và phục vụ tốt cho mục tiêu cơ bản của dạy học tiếng Việt là nâng cao năng lực thực hành trong giao tiếp của học sinh.
Về hệ thống bài tập tiếng Việt trong sách giáo khoa hiện hành, chúng tôi nhận thấy rằng mỗi bài tập nhằm hướng học sinh tới việc tìm hiểu một đơn vị kiến thức hoặc rèn luyện một loại kĩ năng nhất định. Các bài tập trong sách không chỉ được thiết kế  nhằm mục đích thực hành mà bao gồm rất nhiều loại như: bài tập làm quen, bài tập nhận biết, phát hiện, củng cố, vận dụng … và được sắp xếp theo trình tự phù hợp với tiến trình của tiết học. Khi thực hiện hệ thống bài tập này, giáo viên sẽ thực hiện tốt hơn vai trò hướng dẫn, đôn đốc, động viên, giám sát… tức là chỉ đạo mọi hoạt động của lớp học.
Bên cạnh những ưu điểm trên, chúng tôi nhận thấy rằng hệ thống bài tập trong sách giáo khoa về câu trong chương trình hiện hành chỉ mới dừng lại ở mức vận dụng những kiến thức để phân tích, nhận diện, so sánh, đối chiếu, thay thế các yếu tố hay hoàn chỉnh văn bản, sửa chữa lỗi… mà chưa có những bài tập yêu cầu học sinh vận dụng kiến thức để tạo lập một văn bản mới (đoạn văn) trong đó có sử dụng các kiến thức vừa học.
Trong phạm vi bài viết này, trên cơ sở vận dụng quan điểm dạy học tiếng Việt theo định hướng giao tiếp, chúng tôi xin đi vào thiết kế hệ thống bài tập về câu  theo quan điểm giao tiếp trong sách giáo khoa Ngữ văn 11 – ban cơ bản, cụ thể gồm những đơn vị bài học như sau:
- Ngữ cảnh
- Thực hành về lựa chọn trật tự các bộ phận trong câu
- Thực hành về sử dụng một số kiểu câu trong văn bản
-  Nghĩa của câu
Theo quan điểm của lý thuyết hoạt động giao tiếp, hệ thống bài tập tiếng Việt được xác định là phương tiện thực hành nhằm tạo dựng và phát triển năng lực sử dụng tiếng Việt của học sinh. Học sinh phổ thông ở các lứa tuổi khác nhau, trình độ khác nhau thì yêu cầu về năng lực sử dụng ngôn ngữ cũng khác nhau, cách thể hiện các kĩ năng sử dụng ngôn ngữ cũng rất khác nhau. Vì vậy, cần xuất phát từ hệ thống những kĩ năng sử dụng tiếng Việt để thiết kế hệ thống bài tập tiếng Việt. Điều đó cũng có nghĩa là xuất phát từ bản chất của một kĩ năng cụ thể để thiết kế một hệ thống bài tập tiếng Việt tương ứng.
Hiện nay, hầu hết hệ thống bài tập tiếng Việt ở các sách giáo khoa Ngữ Văn chương trình phổ thông chủ yếu được dùng để minh họa lý thuyết về tiếng Việt mà học sinh vừa học. Hệ thống bài tập tiếng Việt này nặng về thực hành ngôn ngữ học mà chưa thể hiện được rõ nét các nguyên tắc giáo dục học trong dạy học thực hành tiếng Việt. Vì thế, khi thiết kế bài tập tiếng Việt, thiết nghĩ cần phải đảm bảo các nguyên tắc sau:
-  Xác định được mục đích: xây dựng hệ thống bài tập tiếng Việt để làm gì?
-  Đặt bài tập tiếng Việt trong những hoạt động giao tiếp cụ thể để quan sát, thể nghiệm, đồng thời sử dụng các đơn vị ngôn ngữ trong hoạt động hành chức để xây dựng các ngôn bản trong bài tập tiếng Việt.
-  Hệ thống bài tập được thiết kế phải tạo được tình huống kích thích nhu cầu giao tiếp và định hướng giao tiếp cho học sinh.
-  Với một bài tập tiếng Việt cụ thể, sau khi thực hành, các em sẽ rút ra hoặc củng cố một tri thức tiếng Việt hoặc một kĩ năng sử dụng tiếng Việt cụ thể.
-  Bài tập tiếng Việt cần quan tâm tới các mối quan hệ xung quanh học sinh, chỉ rõ cho học sinh nhiệm vụ và cách giao tiếp với từng đối tượng trong những hoàn cảnh, tình huống cụ thể, giúp cho học sinh tạo lập những ngôn bản cụ thể phục vụ cho mục đích học tiếng Việt.
Trong chương trình và sách giáo khoa hiện hành, phần ngữ pháp tiếng Việt ở bậc câu, ngoài những câu hỏi hướng vào các vấn đề lí thuyết,  hệ thống bài tập thực hành ngữ pháp đều hướng vào các loại sau đây:
 

                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                         





Sơ đồ hệ thống bài tập về câu theo quan điểm giao tiếp
            Đây là một bài tập cho sẵn một ngữ liệu và yêu cầu phân tích, xác định, nhận diện một hiện tượng ngữ pháp đã có trong ngữ liệu, như: một yếu tố ngữ pháp, một kết cấu ngữ pháp, một thành phần ngữ pháp…
Mục đích: Loại bài tập này có mục đích làm sáng tỏ và cũng cố, phát triển một khái niệm ngữ pháp đã được tiếp thu từ bài học lí thuyết. Có thể, trong ngữ liệu cho sẵn của bài tập, khái niệm được biểu hiện trong nhiều dạng, nhiều vẻ. Học sinh (HS) cần phải dựa vào những đặc trưng cơ bản của khái niệm, hoặc dựa vào những câu hỏi định hướng của giáo viên (GV) để nhận diện, phân tích khái niệm
Cấu tạo: Loại bài tập này thường gồm hai phần: phần trình bày yêu cầu, phần dẫn ngữ liệu. Yêu cầu có thể được diễn đạt bằng nhiều cách như: tìm, xác định, phân tích, cho biết, tìm hiểu, phân loại, thống kê… Đồng thời có thể kết hợp thêm các yêu cầu khác như giải thích, so sánh, lí giải… các hiện tượng ngữ pháp.
Cách tiến hành: Với loại bài tập này, khi thực hành,  giáo viên (GV) cần hướng dẫn cho học sinh (HS) thực hiện các bước sau:
          Căn cứ vào đặc trưng của khái niệm ngữ pháp.
          Vận dụng vào ngữ liệu của bài tập để xác định đối tượng cần nhận diện, phân tích.
          Phân tích đối tượng tìm được để xác định đặc điểm của nó, xem nó có đáp ứng đặc trưng của khái nịêm lí thuyết không. Từ đó củng cố thêm khái niệm.
            Ví dụ: Để hình thành khái niệm Ngữ cảnh trong bài Ngữ cảnh (Ngữ văn 11 – ban cơ bản), GV có thể thực hiện bằng cách tổ chức cho HS đọc, phân tích ngữ liệu trong những tình huống cụ thể, từ đó rút ra khái niệm bằng hệ thống câu hỏi như sách giáo khoa đã thiết kế.[3, 102]
            Ngữ liệu 1: Nếu đột nhiên nghe được câu “Giờ muộn thế này mà họ chưa ra nhỉ?” (ngữ liệu 1), chúng ta có thể hiểu như thế nào về những nội dung sau đây trong câu hỏi đó:
          Câu hỏi trên là của ai nói với ai? Đó là những người như thế nào và có quan hệ với nhau ra sao?
          Câu đó được nói ở đâu, lúc nào?
          Họ trong câu nói đó là ai?...
Nếu đặt câu nói trên vào bối cảnh phát sinh ra nó mà người đọc biết qua lời kể của tác giả trong truyện ngắn Hai đứa trẻ, chúng ta có thể trả lời được hay không? Và trả lời như thế nào?
            Ngữ liệu 2: “Đêm tối đối với Liên quen lắm, chị không sợ nó nữa. Tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngỏ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa. Giờ chỉ còn ngọn đèn con của chị Tí, và cái bếp lửa của bác Siêu chiếu sáng một vùng đất cát; trong cửa hàng, ngọn đèn của Liên, ngọn đèn vặn nhỏ, thưa thớt từng hột sáng lọt qua phên nứa. Tất cả phố xá trong huyện bây giờ đều thu nhỏ lại nơi hàng nước của chị Tí. Thêm được một gia đình bác Xẩm ngồi trên manh chiếu, cái thau sắt trắng để trước mặt, nhưng bác chưa hát vì chưa có khách nghe.
Chị Tí phe phẩy cành chuối khô đuổi ruồi bò trên mấy thức hàng, chậm rãi nói:
-         Giờ muộn thế này mà họ chưa ra nhỉ?”
                                                                                                       (Hai đứa trẻ - Thạch Lam)
             - Gọi HS đọc ngữ liệu 2 [3, 102], phân tích, lí giải, hình thành khái niệm.
            - GV diễn giảng, chốt lại vấn đề: Qua việc tìm hiểu hai ngữ liệu trên, chúng ta thấy rằng muốn lĩnh hội đầy đủ, chính xác nội dung thì cần phải đặt nó vào một ngữ cảnh.
Vậy,  ngữ cảnh là gì?
GV chuyển dẫn, đặt câu hỏi để chuyển sang tìm hiểu các nhân tố của ngữ cảnh: Căn cứ vào khái niệm: “Ngữ cảnh chính là bối cảnh ngôn ngữ, ở đó người nói (người viết) sản sinh ra lời nói thích ứng, còn người nghe (người đọc) căn cứ vào đó để lĩnh hội được đúng lời nói”, anh (chị) hãy cho biết ngữ cảnh được hình thành bởi các nhân tố nào? Phân tích ngữ liệu 2 (nêu trên) để làm rõ?
- HS phân tích, lí giải.
Đây là loại bài tập cũng cho trước một ngữ liệu có sẵn nhưng yêu cầu chuyển đổi ngữ liệu về một phương diện nào đó: về thành phần cấu tạo, về trật tự sắp xếp, về kiểu cấu tạo, ….
Mục đích: Loại bài tập này vừa có tác dụng củng cố khái niệm và quy tắc ngữ pháp, vừa  góp phần rèn luyện năng lực tạo lập các sản phẩm mới.
Cấu tạo: Loại bài tập này thường gồm hai phần: phần trình bày yêu cầu, phần dẫn ngữ liệu. Yêu cầu có thể được diễn đạt bằng nhiều cách như: hãy chuyển đổi, sắp xếp các câu sau đây  theo một trình tự hợp lí (theo đề tài, hoặc theo một trình tự nào đấy mà đề bài yêu cầu)
Cách tiến hành: Thực hiện loại bài tập này, cần chú ý đến các bước:
          Nắm vững yêu cầu của đề bài và hiểu rõ ngữ liệu đã cho (cần tiến hành phân tích ngữ liệu và yêu cầu).
          Thực hiện đúng các yêu cầu chuyển đổi của đề tài cùng các điều kiện giới hạn (nếu có).
          Kiểm tra lại sản phẩm mới theo yêu cầu luyện tâp và theo các chuẩn mực ngôn ngữ, đồng thời so sánh ngữ liệu đã cho với sản phẩm mới để thấy sự giống nhau, khác nhau và giá trị của chúng.
Ví dụ: Bài tập 1[3.194].
Đọc đoạn văn trích sau và thực hiện các yêu cầu nêu bên dưới.
“Hắn chỉ thấy nhục, chứ yêu đương gì. Không, hắn chưa từng được một người đàn bà nào yêu cả, vì thế mà bát cháo hành của thị Nở làm hắn suy nghĩ nhiều. Hắn có thể tìm bạn được, sao lại chỉ gây kẻ thù?”
                                                       (Nam Cao,  Chí Phèo)
a. Xác định câu bị động trong đoạn trích.
b. Chuyển câu bị động sang câu chủ động có nghĩa cơ bản tương đương.
c. Thay câu chủ động vào vị trí câu bị động và nhận xét về sự liên kết ý ở đoạn văn đã có sự thay thế đó.
            Như vậy, với những yêu cầu nêu trên, chúng tôi nhận thấy bên cạnh thao tác thực hành nhận diện, phân tích (a), bài tập trên còn thực hiện thao tác chuyển đổi (b), chuyển đổi và so sánh (c) giúp học sinh củng cố và nâng cao kiến thức về một số kiểu câu thường dùng trong tiếng Việt: cấu tạo, tác dụng liên kết ý trong văn bản của chúng.
Bài tập tạo lập là loại bài tập yêu cầu học sinh tự mình tạo nên (nói hoặc viết) sản phẩm ngôn ngữ theo một yêu cầu nào đó. Việc thực hiện bài tập này gắn với những hoạt động nói và viết hàng ngày của học sinh nhưng vẫn ở dạng luyện tập theo yêu cầu.
Trong phạm vi ngữ pháp ở bậc THPT, có thể luyện tập tạo lập câu hoặc tạo lập văn bản. Các bài tập tạo lập có thể có một vài mức độ và yêu cầu khác nhau, như:
 Bài tập yêu cầu HS tạo lập sản phẩm theo mẫu. Mẫu là một ngữ liệu cho trước hoặc một mô hình khái quát. Khi thực hiện loại bài tập này cần phân tích để nắm vững và hiểu sâu mẫu đã cho, vận dụng kiến thức lí luận và vật liệu ngôn ngữ để tạo ra sản phẩm theo mẫu. Sau đó cần kiểm tra sản phẩm xem có tương xứng với mẫu không.
Ví dụ: Bài tập 3 [3, 194]. Viết một đoạn văn về nhà văn Nam Cao, trong đó có dùng câu bị động. Giải thích tác dụng của câu bị động đó.
Với bài tập này, HS sẽ dựa vào các mẫu đã luyện tập ở bài tập 1, 2, tạo lập một đoạn văn về nhà văn Nam Cao, trong đó có sử dụng câu bị động và giải thích tác dụng của câu bị động đó trong đoạn văn. Để thực hiện được bài tập này, HS phải nắm vững kiến thức về câu bị động: cấu tạo và tác dụng liên kết ý của chúng trong văn bản; đồng thời vận dụng kiến thức lí luận và vật liệu ngôn ngữ để tạo ra sản phẩm theo mẫu đã phân tích ở bài tập 1 và 2.
 Loại bài tập này cho sẵn một phần của sản phẩm và yêu cầu HS tạo lập tiếp theo yêu cầu về kết cấu, về quan hệ ý nghĩa, về hướng triển khai, về liên kết… Nó tương tự loại bài tập điền từ vào chỗ trống, hoặc bài tập viết câu văn mà học sinh đã làm ở lớp dưới. Thực hiện loại bài tập này, GV cần hướng dẫn HS phân tích để nắm vững phần sản phẩm đã có và yêu cầu của bài tập, ròi tiến hành tạo lập tiếp, sao cho thỏa mãn yêu cầu trên và tạo ra sản phẩm thích hợp về quan hệ ý nghãi, về liên kết ngữ pháp.
Ví dụ: Bài tập 4 [4,20]. Đặt câu với mỗi từ ngữ tình thái sau đây: chưa biết chừng, là cùng, ít ra, nghe nói, chả lẽ, hóa ra, sự thật là, cơ mà, đặt biệt là, đấy mà.
Để thực hiện bài tập này, GV có thể tổ chức cho HS làm việc theo nhóm nhỏ, mỗi nhóm sẽ thực hiện bài tập với một nhóm từ. Chẳng hạn, GV có thể chia lớp thành 5 nhóm nhỏ, mỗi nhóm sẽ đạt hai câu với hai từ đã cho, dựa trên các mẫu đã thực hiện từ các bài tập 1, 2, 3. Với hình thức học tập hợp tác trong nhóm nhỏ, HS có điều kiện tương tác, chia sẻ kiến thức, kĩ năng, đáp ứng định hướng dạy học tiếng Việt theo quan điểm giao tiếp.
Loại bài tập này không có mẫu, cũng không có bộ phận nào cho trước, mà chỉ có những yêu cầu về một số phương diện nào đó của sản phẩm: về quan hệ ngữ pháp, về phương tiện ngữ pháp, về quan hệ ý nghĩa, về hoàn cảnh sử dụng… Có thể có nhiều mức độ yêu cầu: từ ít đến nhiều, từ đơn giản đến phức tạp. Cho nên việc tạo lập sản phẩm phải luôn luôn chú ý để đáp ứng được các yêu cầu này. Viêc đáp ứng các yêu cầu cũng là quá trình rèn luyện các năng lực ngôn ngữ về phương diện đó. GV cần hướng dẫn HS hiểu và nằm vững các yêu cầu. Loại bài tập này trong sách giáo khoa tiếng Việt hiện nay chưa được nhiều, nhưng là loại bài tập bổ ích để rèn luyện kĩ năng sử dụng.
Ví dụ: Viết một đoạn văn với đề tài tự chọn, trong đó có sử dụng một số kiểu câu trong văn bản (câu bị động, câu có khởi ngữ, câu có trạng ngữ chỉ tình huống). Phân tích tác dụng liên kết ý của chúng trong đoạn văn.
Để thực hiện bài tập này, HS phải hiểu và nắm vững các yêu cầu về kiến thức: các kiểu câu trong văn bản, và có kĩ năng vận dụng kiến thức vào luyện tập tạo lập văn bản. Vì thế, đối với những bài tập như dạng này, GV có thể kiểm tra kiến thức, kĩ năng của học sinh. Bài tập này có thể thực hiện ở trên lớp dưới hình thức học tập hợp tác theo nhóm nhỏ, hoặc HS sẽ làm ở nhà (học tập cá nhân). Dù thực hiện ở hình thức học tập nào thì theo chúng tôi những dạng bài tập như thế này sẽ phát huy được tính tích cực của người học, đặt người học vào những tình huống giao tiếp có thể xảy ra. Đây cũng là một trong những định hướng dạy học hiện nay: dạy học tiếng Việt theo định hướng của hoạt động giao tiếp.
Tóm lại, khi tiến hành loại bài tập tạo lập sản phẩm, GV cần hướng dẫn HS thực hiện tốt các bước sau đây:
          Phân tích yêu cầu của bài tập và phân tích mẫu hoặc phân tích ngữ liệu cho sẵn để nắm vững các yêu cầu này cùng đặc điểm của mẫu hay ngữ liệu đã cho.
          Tiến hành các thao tác tạo lập sản phẩm sao cho đáp ứng đúng và đủ các yêu cầu của bài tập.
          Kiểm tra lại sản phẩm theo các yêu cầu và đối chiếu với mẫu (nếu có): sửa chữa, điều chỉnh sản phẩm nếu có sai sót.
Như trên đã nêu, do loại bài tập này trong sách giáo khoa tiếng Việt hiện nay chưa được nhiều, vì vậy khi dạy học, GV căn cứ vào nội dung của từng phần trong chương trình mà soạn thảo thêm. Trong việc sọan thảo cần lưu ý cả mục đích củng cố lí thuyết ngữ pháp, cả mục đích rèn luyện kĩ năng ngôn ngữ, đồng thời với trình độ học sinh, đảm bảo tính khoa học, tính tư tưởng và tính sư phạm. Trong khi soạn thảo bài tập taọ lập cần xác định rõ các yêu cầu của bài tập, đồng thời nên hướng các bài tập vào các tình huống giao tiếp có thể xảy ra.
Sửa chữa những lỗi sai là mặt thứ hai của hoạt động thực hành. Bởi lẽ trong hoạt động này đã thực hiện đồng thời mục đích củng cố những kiến thức về lí thuyết và mục đích rèn luyện các kĩ năng và trình độ sử dụng
Sửa chữa lỗi ngữ pháp có thể tiến hành trong nhiều hoàn cảnh dạy học: trong việc chấm trả bài làm văn cho HS, trong việc nhận xét và uốn nắn lời phát biểu của học sinh, trong việc tiến hành giải các bài tập thuộc loại chuyển đổi hoặc tạo lập ở trên.
Khi tiến hành sửa lỗi ngữ pháp ho HS, GV cần lưu ý đến một số điều sau đây:
          Dựa vào lí luận ngữ pháp mà phân tích lỗi (chú ý đặt câu trong văn bản của nó, trong hoàn cảnh giao tiếp của nó)
          Phân biệt lỗi ngữ pháp về câu với những trường hợp câu rút gọn, câu đặc biệt, câu được tách ra từ thành phần của những câu khác nhằm một mục đích nào đó.
          Phân tích nguyên nhân mắc lỗi (đặt trong mối quan hệ nhiều mặt: quan hệ với các câu trong văn bản, quan hệ với quá trình tư duy khi sản sinh câu, …).
          Sửa chữa lỗi ngữ pháp của câu trong hoàn cảnh giao tiếp.
Ví dụ: Sau khi cho HS thực hành bài tập 3 [3, 194] hay bài tập 4 [4,20], căn cứ vào thực tế bài làm của HS, GV tiến hành phân tích và định hướng cho HS chữa lỗi ngữ pháp trong các bài viết của mình.
Khảo sát hệ thống bài tập tiếng việt về câu trong chương trình Ngữ văn 11 hiện hành (ban Cơ bản), trong số 5 đơn vị bài học , chúng tôi thu được kết quả như sau:
Bài học
 
Hệ thống bài tập
Nhận diện, phân tích
chuyển đổi
Tạo lập
Sửa chữa
Ngữ cảnh
5
0
0

Thực hành về lựa chọn trật tự các bộ phận trong câu
4
1
1

Thực hành về sử dụng một số kiểu câu trong văn bản
6
2
3

Nghĩa của câu
4
0
3

Tổng số
19
65,51%
3
10.34%
7
24.13%
0
Nhìn vào bảng thống kê trên, chúng ta có thể nhận thấy, trong hệ thống bài tập tiếng Việt về câu trong SGK Ngữ văn hiện hành, loại bài tập phân tích nhận diện chiếm số lượng rất lớn: 65,51%, loại  bài tập tạo lập chiếm 24,13%, và loại bài tập chuyển đổi chiếm số lượng rất khiêm tốn: 10.34%. Mặt khác, loại bài tập chuyển đổi không thiết kế thành một bài tập độc lập mà thường ghép chung với bài tập nhận diện, phân tích. Sự phân bố các loại bài tập theo tỉ lệ như thế, theo chúng tôi là đã phù hợp với đối tượng HS học ban cơ bản. Hơn nữa, các bài tập tiếng Việt về câu trong SGK Ngữ văn 11 hiện hành, theo chúng tôi cũng đã thể hiện quan điểm tích hợp trong dạy học Ngữ văn. Điều này thể hiện ở chỗ, các ngữ liệu trong hệ thống bài tập tiếng Việt về câu đều được lấy từ các văn bản mà các em đã học từ phần đọc văn.
Ví dụ để hình thành khái niệm ngữ cảnh, SGK đã định hướng bằng cách yêu cầu GV-HS phải đọc và phân tích hai ngữ liệu trong sự so sánh, trong đó, ngữ liệu 2 là một đoạn văn trong văn bản Hai đứa trẻ , học sinh được học ngay trước bài Ngữ cảnh. Tương tự như thế, trong số 5 bài tập trong mục Luyện tập của bài học đã có 4 bài tập được xây dựng trên cơ sở những ngữ liệu mà các em đã được học trong phần đọc văn trước đó (Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Nguyễn Đình  Chiểu; Tự tình – Hồ Xuân Hương, Thương vợ  và Vịnh khoa thi hương – Trần Tế Xương); bài tập thứ 5 là bài tập tính huống. 
Tuy nhiên, có một thực tế mà từ những tiết dạy học của bản thân và qua những tiết dự giờ đồng nghiệp mà do yêu cầu công tác, bản thân chúng tôi có dịp dự giờ ở một số trường THPT, trong số những bài tập nhận diện, phân tích mà SGK đã thiết kế, chúng tôi nhận thấy rằng một số không ít GV chưa hiểu được ý đồ của các tác giả viết SGK, vì thế khi phân tích ngữ liệu thường tỏ ra lúng túng (mặc dù SGK đã phân tích rất chi tiết, GSV hướng dẫn cụ thể).
Ví dụ hệ thống bài tập trong mục tìm hiểu bài, trong mục luyện tập của bài Ngữ cảnh. Một số GV đã tỏ ra lúng túng khi tổ chức cho HS đọc, phân tích ngữ liệu 2 – một đoạn văn trong Hai đứa trẻ (Thạch Lam). Hệ thống câu hỏi định hướng trong SGK rất rõ, phần lí giải cũng khá rõ nhưng nếu GV chỉ đơn thuần phân tích ngữ liệu 2 (hầu hết đều thực hiện theo hướng này), mà không có sự so sánh đối chiếu với ngữ liệu 1, thì ngữ liệu 1 sẽ bị tách ra khỏi hệ thống bài tập (mà điều này theo chúng tôi là chưa hiểu được tư tưởng của các soan giả SGK!).
Một số GV cảm thấy lúng túng trong khi khai thác ngữ liệu đó đã chọn  giải pháp là thay đoạn văn Hai đứa trẻ (Thạch Lam) trong SGK bằng một đoạn văn trong Tắt đèn (Ngô Tất Tố). Đoạn văn:
“Chị Dậu xám mặt, vội vàng đặt con bé xuống đất, chạy đến đỡ lấy tay hắn:
-  Cháu van ông, nhà cháu vừa mới tỉnh dạy được một lúc, ông tha cho!
-  Tha này, tha này!
Vừa nói hắn vừa bịch luôn vào ngực chị Dậu mấy bịch rồi lại sấn đến trói anh Dậu.
Hình như tức quá không chịu được, chị Dậu liều mạng cự lại:
-  Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ!
Cai lệ tát vào mặt chị một cái đánh bốp, rồi hắn cứ nhảy vào cạnh anh Dậu.
Chị Dậu nghiến hai hàm răng:
-  Mày trói chồng bà đi, bà cho mày xem!”
(Tắt đèn – Ngô Tất Tố)
Theo cảm nhận chủ quan của chúng tôi, khi cho HS phân tích đoạn văn trích trong Tắt đèn (Ngô Tất Tố), học sinh có vẻ hào hứng hơn. Thực tế cũng đã cho thấy hiệu quả của tiết học tốt hơn. Từ thực tế đó, chúng tôi thiết nghĩ rằng đối với những bài học cung cấp kiến thức, khi xây dựng hệ thống bài tập (mục tìm hiểu bài học), nên chăng chúng ta nên chọn ngữ liệu không chỉ hội đủ những nội dung mà bài học đề cập đến mà còn phải tính đến hệ thống câu hỏi dẫn dắt giúp GV, HS từ phân tích ngữ liệu có thể dễ dàng rút ra khái niệm.
A. Mục tiêu bài học
- Kiến thức
+ Nắm được khái niệm ngữ cảnh, các yếu tố của ngữ cảnh và vai trò của nó trong hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ.
+ Biết nói (viết) phù hợp với ngữ cảnh, đồng thời có kỹ năng lĩnh hội, phân tích nội dung và hình thức ngôn ngữ của lời nói trong quan hệ với ngữ cảnh.
- Kỹ năng
+ Các kỹ năng thuộc quá trình tạo lập văn bản: lựa chọn đề tài, triển khai đề tài, kỹ năng sử dụng các phương tiện ngôn ngữ, kỹ năng kết cấu văn bản…
+ Các kỹ năng thuộc quá trình lĩnh hội văn bản: lĩnh hội từ, câu, văn bản trong ngữ cảnh, kỹ năng phân tích, bình giá các yếu tố trong ngữ cảnh,…
+ Xác định ngữ cảnh đối với từ, câu, văn bản,…
B. Cách thức tiến hành
Hướng dẫn học sinh ôn lại lí thuyết, làm bài tập thực hành. Cụ thể như sau:
- GV hướng dẫn học sinh phân tích ngữ liệu rồi nêu nhận định và tổng kết. Ngoài ra trong hoạt động dạy học, nên đối chiếu giữa trạng thái độc lập của câu và trạng thái có quan hệ với ngữ cảnh.
- Ở phần luyện tập:GV hướng dẫn học sinh thực hiện các bài tập theo cá nhân hoặc nhóm, sau đó tổng kết về nội dung giải bài tập ở toàn lớp.
C. Thiết kế hệ thống bài tập
Hệ thống bài tập
Cách thức tiến hành
1.  Hoàn chỉnh khái niệm sau bằng cách điền vào chỗ trống một cụm từ thích hợp.
Ngữ cảnh là  …mà người nói (viết) sản sinh lời nói thích ứng và người nghe (đọc) căn cứ để lĩnh hội”.
A. bối cảnh            B. Bối cảnh ngôn ngữ
C. tình huống        D. Khung cảnh
  Luyện tập     
1. GV đặt câu hỏi, HS tái hiện kiến thức hoàn chỉnh khái niệm Ngữ cảnh.

2. Căn cứ vào ngữ cảnh, hãy phân tích những chi tiết được miêu tả trong hai câu sau:
Tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng, trông tin quan như trời hạn trông mưa; mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ.
Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen xì, muốn ra cắn cổ.”
       (Nguyễn Đình Chiểu, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc)
2. Hs làm việc cá nhân
Căn cứ vào hoàn cảnh sáng tác “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” (Đêm 14/12/1861, nghĩa quân tấn công đồn giặc (Cần Guộc), một số nghĩa quân đã hi sinh, Nguyễn Đình Chiểu viết bài văn tế ấy trong đó có những câu văn trên.
- Tiếng phong hạc phập phồng: nghe tiếng gió thổi hạc kêu người dân cũng phập phồng lo sợ (tưởng là lũ giặc tới).
- Trông tin quan như trời hạn trông mưa:  khát khao mong mỏi quan quân triều đình đến đánh dẹp lũ giặc.
-  Bòng bong che trắng lốp: lều trại của giặc giăng đầy.
-  Muốn tới ăn gan, muốn ra cắn cổ : lòng căm thù cao độ lũ giặc.
® Rất căm thù giặc Pháp xâm lược, mong mỏi quan lính triều đình đánh dẹp.
3.  Phân tích các nhân tố giao tiếp được thể hiện trong thư Bác Hồ gửi học sinh cả nước nhân ngày khai trường tháng 9-1945 ?
3. HS làm việc theo nhóm, thời gian 5 phút
- Nhân vật giao tiếp: Bác Hồ (chủ tịch nước): người viết, các em học sinh: người đọc.
- Hoàn cảnh giao tiếp: Đất nước vừa giành được độc lập, HS sẽ được học tập trong một nền giáo dục mới của Việt Nam (hoàn cảnh rộng); ngày khai trường (hoàn cảnh hẹp).
- Hiện thực được nói đến: thư Bác Hồ chúc mừng HS nhân ngày khai trường, xác định nhiệm vụ của HS trong thời kỳ lịch sử mới.
4. Trên đường đi, hai người không quen biết gặp nhau, một người hỏi: “Thưa bác, bác có đồng hồ không ạ?”. Trong ngữ cảnh đó, câu hỏi cần được hiểu như thế nào? Nó nhằm mục đích gì?
5. Hãy nghĩ ra những hoàn cảnh giao tiếp khác nhau, theo đó, câu nói: “Anh ăn cơm chưa? Có thể chuyển tải nhiều ý nghĩa hàm ý khác nhau.
6. Hãy nêu một hoàn cảnh giao tiếp mà người nói buộc phải trình bày vấn đề một cách vòng vèo.

Căn cứ vào các tình huống mà HS nêu ra qua các câu trả lời, GV điều chỉnh, bổ sung.




A. Mục tiêu bài học:
- Kiến thức
+ Nâng cao thêm một bước nhận thức về vai trò, tác dụng của trật tự các bộ phận câu trong việc thể hiện ý nghĩa và liên kết ý trong văn bản.
+ Có kỹ năng nhận biết và phân tích tác dụng của trật tự sắp xếp các bộ phận trong câu, đồng thời biết sắp xếp trật tự trong câu khi nói, khi viết nhằm đạt được hiệu quả giao tiếp nhất định.
- Kỹ năng
+ Nhận biết và phân tích vai trò (nhấn mạnh nội dung thông tin hay liên kết văn bản) của trật tự các bộ phận câu (câu đơn và câu ghép) khi câu nằm trong một ngữ cảnh nhất định.
+ Nhận biết sự mơ hồ hay vô nghĩa của câu do các bộ phận trong câu không được sắp đặt ở vị trí thích hợp. Từ đó cần có kỹ năng sửa lỗi.
+ Sắp xếp một cách tối ưu các bộ phận của câu khi câu được dùng trong ngữ cảnh để đạt được hiệu quả giao tiếp cao.
B.  Phương pháp thực hiện:
            Hướng dẫn học sinh ôn lại lí thuyết, làm bài tập thực hành.
C. Thiết kế hệ thống bài tập
Hệ thống bài tập
Cách thức tiến hành
I. Trật tự trong câu đơn
1. Đọc đoạn trích sau, chú ý trật tự các bộ phận câu được in đậm và trả lời câu hỏi.
“Hắn móc đủ mọi túi, để tìm một cái gì, hắn giơ ra: đó là một con dao nhỏ, nhưng rất sắc. Hắn nghiến răng rồi nói tiếp:
-  Vâng, bẩm cụ không được thì con phải đâm chết dăm ba thằng, rồi cụ bắt con giải huyện.”
                            (Nam Cao, Chí Phèo)
a. Có thể sắp xếp phần in đậm theo trật tự “rất sắc, nhưng nhỏ” mà câu vẫn phù hợp với mạch ý trong đoạn văn được không?
b. Việc sắp xếp theo trật tự “nhỏ nhưng rất sắc” có tác dụng như thế nào đối với sự thể hiện ý nghĩa của câu và sự liên kết ý trong đoạn văn?
c. So sánh với trật tự của các từ ngữ đó trong trường hợp sau:
- Hắn có một con dao rất sắc nhưng nhỏ. Dao ấy thì làm sao chặt được cành cây to này!?
Trong mỗi trường hợp trên đây, trật tự sắp xếp các bộ phận câu có mục đích gì? (Xét trong quan hệ về ý với các câu đi trước. đi sau).
I. Trật tự trong câu đơn
1. Gv tổ chức cho HS đọc, phân tích, trả lời câu hỏi 1,2. Cho HS nhận xét các câu trả lời, GV chốt lại hoặc can thiệp khi cần thiết.



a)  Không. Vì, không thể hiện được mục đích của hành động: mục đích đe dọa uy hiếp đối phương.
b) Việc sắp xếp theo trật tự “nhỏ nhưng rất sắc” nhằm mục đích dồn trọng tâm thông báo vào cụm từ rất sắc, phù hợp với mục đích đe doạ, uy hiếp bá Kiến của Chí Phèo.
c) Sự sắp xếp trong trường hợp này lại phù hợp vì có mục đích chế nhạo.
Þ Trật tự sắp xếp các bộ phận câu có quan hệ về ý với các câu đi trước, đi sau của văn bản.
-  Cần xác định trọng tâm thông báo để sắp xếp các bộ phận trong câu sao cho dạt đạt được mục đích giao tiếp.
2. Một HS trung học cơ sở còn lưỡng lự trong việc lựa chọn giữa hai cách viết sau đây. Anh (chị) hãy giúp em đó lựa chọn cách viết tối ưu và giải thích lí do của sự lưa chọn đó.
A. Bạn em nhỏ người nhưng rất thông minh. Thầy giáo đã chọn bạn ấy vào đội tuyển học sinh giỏi.
B. Bạn em rất thông minh, nhưng nhỏ người. Thầy giáo đã chọn bạn ấy vào đội tuyển học sinh giỏi.
2.
- Cách viết (A) là phù hợp vì cụm từ “rất thông minh” là trọng tâm thông báo là luận cứ quan trọng nhất để dẫn đến kết luận ở câu sau.
- Cách viết (B) là không phù hợp với lập luận, không làm nổi bật trọng tâm thông báo.

3. Cho đoạn văn hội thoại sau:
 Con gái nói với mẹ:
- Anh ấy nhà nghèo nhưng rất đẹp trai.
Mẹ khuyên con gái:
- Mẹ thấy anh ấy đẹp trai nhưng nhà rất nghèo.
 Trật tự sắp xếp các bộ phận câu trong các câu trên có tác dụng như thế nào trong vệc thể hiện nội dung?
3. Gv cho HS nhận xét và rút ra mục đích nói của các nhân vật trong  ngôn bản trên.
- Trật tự sắp xếp trước sau của các cụm từ in đậm trong các câu gắn liền với mục đích nói:
+ Trọng tâm thông báo của cô gái là “rất đẹp trai”. Bà mẹ không phủ nhận nội dung thông báo của cô con gái nhưng có ý khuyên con nên thận trọng trước khi quyết định “chọn” chàng trai là người yêu.
® Trật tự sắp xếp các bộ phận câu trong các câu có tác dụng trong vệc thể hiện nội dung của văn bản (ngôn bản).
4. Cho các câu văn sau, chú ý các từ ngữ in đậm và trả lời các câu hỏi bên dưới.
(1)  Chung quanh tôi đang cười nói bô bô nhiều anh em công nhân mỏ than vẫn còn nguyên vẹn cái tính tình con người nông dân Thái ở quanh bản, quanh châu Quỳnh Nhai này. (Nguyễn Tuân).
(2)  Ông giáo kéo đôi giày vá từ đầu nhà thờ đi sang. Trong tay đủ cả quản bút, lọ mực, giấy trắng và giấy thắm. (Ngô Tất Tố)
(3) Của ong bướm này đây tuần tháng mật
      Của yến anh này đây khúc tình si
                               (Xuân Diệu)
(4)  Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều
Bóng dài trên đỉnh đốc cheo leo
                                   (Tố Hữu)
a. So sánh với trật tự của các từ ngữ đó trong trường hợp sau:
(2)  Chung quanh tôi nhiều anh em công nhân mỏ than vẫn còn nguyên vẹn cái tính tình con người nông dân Thái ở quanh bản, quanh châu Quỳnh Nhai này đang cười nói bô bô .
(4)  Ông giáo kéo đôi giày vá từ đầu nhà thờ đi sang. Đủ cả quản bút, lọ mực, giấy trắng và giấy thắm trong tay.
(3) Này đây tuần tháng mật của ong bướm
      Này đây khúc tình si của yến anh
                               (Xuân Diệu)
(4)  Lúc nắng chiều hình anh rất đẹp.
       Trên đỉnh đốc cheo leo bóng dài
                                   (Tố Hữu)
b. Từ sự so sánh mỗi trường hợp trên, cho biết trật tự sắp xếp các bộ phận câu có mục đích gì?
4/a. GV hướng dẫn HS phân tích vị trí các từ in đậm, sau đó thực hiện thao tác so sánh chuyển đổi, rút ra ý nghĩa của câu trong từng trường hợp, rút ra kết luận.
- (1): vị từ - danh từ chủ thể ® nhấn mạnh bản tính hồn nhiên của những người công nhân vốn xuất thân từ tầng lớp nông dân.
(2): chủ ngữ - vị ngữ “đang cười nói bô bô” ® miêu tả hoạt động “cười nói” của chủ thể - những anh em công nhân.
Hs tự làm các bài tập tương tự và rút ra kết luận
-  HS phân tích các trường hợp còn lại

5. Đọc chuỗi câu sau đây và thực hiện các yêu cầu  sau:
 (1) Trở về phòng, nằm thao thức không ngủ được. (2) Đi thăm bệnh nhân về giữa đêm khuya. (3) Rừng khuya im lặng như tờ, không một tiếng chim kêu, không một tiếng lá rụng hoặc một ngọn gió nào đó khẽ rung cành cây. (4) Nghĩ gì đấy Th. ơi?
                           (Nhật ký Đặng Thùy Trâm)
a. Sắp xếp các câu trên thành một đoạn văn hoàn chỉnh.
b. Nhận xét trật tự sắp xếp các trạng ngữ và tác dụng của chúng trong đoạn văn trên.
5. HS sắp xếp chuỗi câu thành đoạn văn: (2) – (1) – (3) – (4).
b) Các trạng ngữ được sắp xếp theo trình tự thời gian và diễn tiến của sự việc

6. Viết một đoạn văn ngắn (khoảng 10 câu), đề tài tự chọn, trong đó có sử dụng trạng ngữ ở các vị trí trong câu (đầu câu, giữa câu, cuối câu)
6. HS thực hiện bài tập theo nhóm (nếu còn thời gian) hoặc làm ở nhà.
II. Trật tự câu ghép
1. Trong những câu ghép ở các đoạn trích sau, vì sao vế in đậm lại đặt ở vị trí sau so với vế còn lại? Khi đặt vế đó ở vị trí trước thì nội dung của câu và mạch lạc ý của đoạn có gì thay đổi?
a) Lính cơ, cai lệ vẫn nằm chầu Chánh tổng ở bên bàn đèn; thủ quỹ, thư ký, Chánh hội, Phó hội và các chức dịch ngổn ngang ngồi ở cạnh những cuốn sổ sách bề bộn. (Ngô Tất Tố)
b) Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác thì lại không thể được. (Nam Cao)
c) Ông cụ già chết, danh dự của Xuân lại càng to thêm, vì cái lẽ rất chính đáng là luôn ba hôm nó đã trốn một chỗ nào không ai biết, đến nổi cụ bà cho người đi tìm đâu cũng không thấy. (Vũ Trọng Phụng)
d)              Lặng nghe, vừa ý, gật đầu,
          Cười rằng: tri kỷ trước sau mấy người
                             (Nguyễn Du)
II. Trật tự câu ghép
1. Gv tổ chức cho HS làm thêm ngoài những bài tập trong SGK.

a) Hai vế câu có thể hoán đổi vị trí cho nhau mà ý nghĩa của câu vẫn không thay đổi. Bởi đây là câu ghép đẳng lập.
b). HS làm các trường hợp còn lại.









2. Bổ sung câu văn thích hợp vào đoạn văn sau: […]. Ấy thế mà ở Hà Tĩnh, người ta cố mua cho kỳ được bưởi Phúc Trạch khi trong nhà có người ốm đau… Già nua tuổi tác, người mệt mỏi, miệng khô, đượcc ăn múi bưởi Phúc Trạch cảm thấy tỉnh táo dễ chịu.
A. Chẳng mấy ai thích dùng cam.
B. Chẳng mấy ai dùng  cam cho người ốm ăn, mà thường dùng bưởi.
C. Chẳng mấy ai thích dùng bưởi.
D. Chẳng mấy ai dùng bưởi cho người ốm ăn, mà thường dùng cam.
2, HS căn cứ vào văn cảnh để tìm câu văn thích hợp (câu D).

A. Mục tiêu bài học

- Kiến thức: Thông qua thực hành củng cố và nâng cao:
+ Kiến thức về cấu tạo của ba kiểu câu: câu bị động, câu có khởi ngữ, câu có trạng ngữ chỉ tình huống.
+ Kiến thức về sự liên kết của các câu trong văn bản;
+ Tác dụng của mỗi kiểu câu trên trong văn bản: tác dụng thể hiện nội dung thông tin, tác dụng liên kết trong văn bản.
- Kỹ năng
+ Nhận diện và phân tích được đặc điểm cấu tạo của ba kiểu câu (câu bị động, câu có khởi ngữ, câu có trạng ngữ chỉ tình huống).
+ Phân tích được tác dụng  về diễn đạt ý của ba kiểu câu đó trong văn bản.
+ Lựa chọn cách đặt câu sao cho thích hợp với sự triển khai ý trong văn bản.

B. Cách thức triến hành

            Hướng dẫn học sinh ôn lại lí thuyết, làm bài tập thực hành.
C. Thiết kế hệ thống bài tập
Hệ thống bài tập
Cách thức tiến hành

1. Đọc đoạn trích và thực hiện các yêu cầu được nêu:
 -  Anh (chị) hãy đọc đoạn văn: “Nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đĩa vẫn vắt khươm mươi niên ở một góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nướcvẫn để khô cong ở dưới gốc ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung bành ngay lối đi đã hốt sạch.” (Kim Lân, Vợ Nhặt)
a. Xác định các câu bị động trong đoạn văn trên.
b. Có thể chuyển đổi những câu bị động trong đoạn văn trên thành câu chủ động không? Vì sao?
I. Dùng kiểu câu bị động
1. HS xác định các câu bị động, thực hiện thoa tác chuyển đổi các câu bị động thành câu chủ động. Nhận xét hiệu quả diển đạt của các câu chủ động vưa 2thay thế trong đoạn văn so với các câu bị động được dùng ban đầu.

2. Thành phần chủ ngữ trong kiểu câu bị động, thành phần khởi ngữ, thành phần trạng ngữ chỉ tình huống cùng có vị trí:
A. Đứng sau vị ngữ trong những kiểu câu chứa chúng;
B. Đứng đầu trong những kiểu câu chứa chúng;
C. Đứng trong vị ngữ những kiểu câu chứa chúng;
D. Không nhất thiết phải theo một vị trí
2. GV hướng dẫn HS quan sát và vận dụng kiến thức từ các bài luyện tập để rút ra kết luận


                             




3.  Đọc các đoạn văn sau và thực hiện các yêu cầu ở dưới:
[1]  Trong một lúc Tràng hình như quên hết những cảnh sống ê chề, tối tăm hàng ngày, quên cả cái đói khát ghê gớm đang đe dọa, quên cả những tháng ngày trước mặt. Trong lòng hắn chỉ có người đàn bà đi bên. Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy, nó ôm ấp mơn man khắp da thịt, tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ trên sống lưng.  (Kim Lân, Vợ Nhặt)
[2]   A Phủ, mày đánh con quan, đáng lẽ làng xử mày tội chết, nhưng làng tha cho mày được sống mà nộp vạ. Cả tiền phạt, tiền thuốc, tiền lợn mày phải chịu một trăm đồng bạc trắng.
                            (Tô Hoài, Vợ chồng A Phủ)
[3] Nhưng thóc cao, gạo kém quá, công làm thì vẫn thế. Sáu đồng bạc với ba đồng thầy cháu đưa cho, ba mẹ con ăn không đủ. (Nam Cao)
a) Xác định khởi ngữ và những câu có khởi ngữ.
b) So sánh tác dụng trong văn bản (về mặt liên kết ý, nhấn mạnh ý, đối lập ý…) của kiểu câu có khởi ngữ với kiểu câu không có khởi ngữ.
II. Dùng kiểu câu có khởi ngữ












a)HS xác định khởi ngữ và câu có thành phần khởi ngữ
b)Nhận xét về mặt liên kết ý của kiểu câu có khởi ngữ với kiểu câu không có` khởi ngữ.
4. Đọc các đoạn văn sau, chú ý những từ ngữ in đậm và trả lời câu hỏi:
[1]  Trong hai người con gái, một trẻ và xinh đẹp ngồi bên cạnh, và một người chết anh dũng kia ai là người đã từng mang canh cánh trong trái tim tuổi trẻ mối tình đầu đối với tôi suốt mấy năm mà tôi lại tỏ ra thờ ơ, hờ hững? (Nguyễn Minh Châu, Mảnh trăng cuối rừng)
[2]  Đang đọc bản Tuyên ngôn Độc lập nửa chừng, Bác dừng lại và bỗng dưng hỏi:
-  Tôi nói đồng bào nghe rõ không?
Một triệu con người cùng đáp, tiếng vang như sấm.
                                       (Võ Nguyên Giáp)
[3]  Giản dị trong đời sống, trong quan hệ với mọi người, trong tác phong, Hồ Chủ Tịch cũng rất giản dị trong khi nói và bài viết, vì muốn cho quần chúng nhân dân nhớ được, hiểu được và làm được.
                                          (Phạm Văn Đồng)
a) Phần in đậm nằm ở vị trí nào trong câu?
b) Nó có cấu tạo như thế nào (là danh từ, động từ, là cụm động từ, cụm tính từ…)?
c) Chuyển phần in đậm về vị trí sau chủ ngữ và nhận xét sự giống nhau và khác nhau về cấu tạo, về nội dung của các câu trước và sau khi chuyển.
III. Dùng kiểu câu có trạng ngữ chỉ tình huống
4. HS nhận xét vị trí của các phần in đậm, phân tích cấu tạo các cụm từ, thực hiện thao tác chuyển đổi để rút ra kết luận: sự giống nhau và khác nhau về cấu tạo, về nội dung của các câu trước và sau khi chuyển.

5. Viết một đoạn văn với đề tài tự chọn, trong đó có sử dụng một số kiểu câu trong văn bản (câu bị động, câu có khởi ngữ, câu có trạng ngữ chỉ tình huống). Phân tích tác dụng liên kết ý của chúng trong đoạn văn.
5. HS làm việc theo nhóm
A. Mục tiêu bài học:
- Kiến thức
+ Nắm được những nội dung cơ bản về hai thành phần nghĩa của câu: nghĩa sự việc và nghĩa tình thái.
+ Nhận biết và phân tích được hai thành phần nghĩa của câu, biết diễn đạt được nghĩa của sự việc và nghĩa tình thái bằng câu thích hợp với ngữ cảnh.
- Kỹ năng
+ Nhận biết và phân tích hai thành phần nghĩa trong câu.
+ Tạo lập câu thể hiện được nghĩa sự việc và nghĩa tình thái.
+ Phát hiện và sửa lỗi về nội dung ý nghĩa của câu.
B. Phương pháp thực hiện:
            Hướng dẫn học sinh ôn lại lí thuyết, làm bài tập thực hành củng cố bài học.
C. Thiết kế hệ thống bài tập
Hệ thống bài tập
Cách thức tiến hành
1. Chọn từ ngữ thích hợp thêm vào hai chỗ trống trong câu sau để câu thể hiện đúng hai thành phần: nghĩa sự việc và nghĩa tình thái.
a)     Ông Phó Nhụy thở phào: thuyền ông vừa […] đâm vào núi đá. (Bùi Hiển)
A. định         B. toan        C. suýt           D. đang
b) Thời vụ lại hết rồi. Qua giêng, mười ngày nghỉ, […] một ngày có việc. (Nam Cao)
A. tất        B. Chưa chắc      C. Hẳn       D. phải
1. GV gợi ý cho HS chọn từ thích hợp điền vào chỗ trống để câu thể hiện đúng hai thành phần: nghĩa sự việc và nghĩa tình thái.
a)  C. suýt
b)  B. chưa chắc

2. Xác định thành phần nghĩa sự việc trong các câu sau đây:
a) Phải dán năm tem kia đấy.
b) Bẩm quả có tên Nguyễn Khắc Hiếu. (Tản Đà)
c) Trong đầm gì đẹp bằng sen.
d) Sức này đã dễ làm gì được nhau (Nguyễn Du)
e) Đêm hôm nay người ta bày cuộc đánh thơ ở nhà ông Kinh Lịch (Nguyễn Tuân)
g) Huấn Cao lạnh lùng, chúc mũi gông nặng, khom mình thúc mạnh đầu thang gông xuống thềm đá đánh huỳnh một cái. (Nguyễn Tuân).
2. GV tổ chức cho HS ôn lại lí thuyết, vận dụng lí thuyết vào luyện tập.
Ví dụ:
a) dán năm tem.
b)    
     HS thực hiện các trường hợp còn lại.

3. Xác định thành phần nghĩa tình thái trong các câu sau đây:
a) Đằng nào cũng phải về cơ mà. May ra có lẽ mợ không mắng đâu. (Thạch Lam)
b) Quan cứ lệnh, lính cứ truyền, mau đi phá hủy dinh quận Huy anh em ơi! (Ngô gia văn phái).
c) Giá họ đừng hiền lành như thế còn hơn.
                                    (Xuân Diệu).
d) Hắn nhặt một hòn gạch cũ, toan đập vào đầu.                   (Nam Cao)
e) Nếu ba quân làm như thế, tất sẽ gây ra nhiều việc lôi thôi. (Ngô gia văn phái)
f) Nếu còn giữ chiếc giày ấy không khéo có ngày vợ con chết đói. (Ngô Tất Tố)
3. GV tổ chức cho HS ôn lại lí thuyết, vận dụng lí thuyết vào luyện tập.
Ví dụ:
a)     có lẽ
b)    
   HS thực hiện các trường hợp còn lại.


4. Xác định nghĩa sự việc và nghĩa tình thái trong bài thơ sau:
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngỏ
Hình như thu đã về
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.
                    (Hữu Thỉnh)
4. Gv tổ chức cho HS làm việc theo nhóm. Mỗi nhóm 4 HS, thời gian: 5 phút.
Các nhóm thực hiện bài tập trên phiếu học tập.


câu   Nghĩa sự việc     Nghĩa tình thái
1       Hương ổi: đặc điểm của sự vật          Bỗng: thái độ bất ngờ
2       …                         …

5. Đặt câu với mỗi từ tình thái sau đây: có lẽ, hình như, chưa biết chừng, là cùng, ít ra, nghe nói, chả lẽ, hóa ra, sự thật là, cơ mà, đặc biệt là, đấy mà, rõ ràng là, chắc, đã đành, thật là, dễ, hẳn, đã đành, dường như.
5. Mỗi HS sẽ đặt một câu theo số thứ tự từ 1 đến 20. Sau đó  đến lượt thứ hai cũng tương tự như thế.
Thời gian làm việc 3 phút.
GV gọi một HS bất kỳ đọc câu mình vừa đặt. Sau đó, gọi một em khác có câu cùng một từ với em HS vừa gọi, trình bày…



3. Thay lời kết luận
            Từ những điều trình bày trên, chúng tôi nhận thấy rằng, dạy câu theo định hướng giao tiếp tức là đặt câu vào “môi trường sống” của nó. Về phương diện này, câu được nhìn nhận với tư cách là một đơn vị trong hệ thống ngôn ngữ, câu được đặt trong môi trường của nó. Dạy học câu theo quan điểm giao tiếp là một cách thức giảng dạy chứa nhiều yếu tố tích cực. Việc tìm hiểu, nắm vững và tiến hành tổ chức một cách khoa học sẽ là nhân tố góp phần quan trọng vào việc cải thiện lỗi viết câu của học sinh.
Theo định hướng của tổ chức dạy và học câu theo định hướng giao tiếp, hệ thống bài tập được thiết kế “không dừng lại ở khắc sâu kiến thức, mà phải hướng tới rèn luyện năng lực viết câu, khả năng lĩnh hội, đánh giá câu của người khác, có khả năng chữa câu sai”. Bài tập được thiết kế ở nhiều dạng. Chẳng hạn, giáo viên cho một chủ đề, yêu cầu học sinh viết một đoạn về chủ đề đó; chọn một đoạn văn, bỏ trống một số câu, yêu cầu học sinh điền vào, tiến hành so sánh các câu của học sinh với các câu của văn bản gốc; cho một đoạn văn trong đó có một vài câu sai ngữ pháp, yêu cầu học sinh phát hiện và sửa lỗi; giáo viên cho trước một hay hai câu, yêu cầu học sinh viết các câu tiếp theo; yêu cầu học sinh sưu tầm những câu, theo các em, có cách diễn đạt hay, lí giải; phát hiện lỗi và sửa chữa các câu sai ngữ pháp đã được giáo viên gạch chân trong bài viết. Trong quá trình dạy học theo quan điểm giao tiếp, giáo viên phải tạo điều kiện cho học sinh nảy sinh các nhu cầu giao tiếp, hứng thú giao tiếp, dạy và học tiếng trong tình huống giao tiếp. Bởi, mục đích cuối cùng của việc dạy và học ngôn ngữ theo quan điểm giao tiếp là luyện cho học sinh có được năng lực sử dụng ngôn ngữ như một phương tiện giao tiếp. Vì vậy, nhân vật trung tâm của quá trình dạy và học là học sinh, giáo viên là người có nhiệm vụ dẫn dắt học sinh  tới mục đích giao tiếp. Trong quá trình giao tiếp, giáo viên là người tư vấn đáng tin cậy của học sinh. Giáo viên xuất hiện mỗi khi học sinh gặp khó khăn về ngôn ngữ, sau  đó lại để học sinh tự thực hành ngôn ngữ. Giáo viên không nên giúp nhiều mà chỉ giúp khi nào thật cần thiết.
          Tóm lại, việc dạy và học tiếng Việt là một vấn đề được tất cả chúng ta, những người Việt yêu quí tiếng nói được cha ông ta gìn giữ từ ngàn đời nay quan tâm. Hãy dạy và học tiếng Việt thật như nó vốn có, như nó vốn được mọi người  Việt nói và viết trong cuộc sống cũng như trong văn chương, ở gia đình, nhà trường cũng như trong xã hội.







Tài liệu tham khảo
1. Lê A, Nguyễn Quang Ninh, Bùi Minh Toán (1997), Phương pháp dạy học tiếng Việt, NXB Giáo dục, Hà Nội.
2. Đỗ Hữu Châu (1998), Cơ sở ngữ dụng học, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội.
3. Phan Trọng Luận (Tổng chủ biên) (2007), Ngữ văn 11 –  Ban cơ bản, tập 1, NXB Giáo dục, Hà Nội.
 4. Phan Trọng Luận (Tổng chủ biên) (2007), Ngữ văn 11 –  Ban cơ bản, tập 2, NXB Giáo dục, Hà Nội.
5. Lý Toàn Thắng (1998), Lí thuyết hoạt động ngôn ngữ và dạy học tiếng Việt ở trung học cơ sở, NXB Giáo dục, Hà Nội.

MỤC LỤC
*******

1.Lý do chọn đề tài ……………………………………………………………………………….1
2. Mục đích nghiên cứu …………………………………………………………………………..1
3. Phương pháp nghiên cứu ………………………………………………………………………1


 
 




No comments:

 

© 2012 Học Để ThiBlog tài liệu