Trở về hai trăm năm trước, để cùng sẻ chia và thấu hiểu nỗi đau đời của người xưa. Gió dập sóng dồi đâu chỉ ở Đoạn trường tân thanh. Tấm lòng thơ đâu chỉ dành cho một đôi người bất hạnh. Tình đời đâu chỉ dành cho dương thế. Nguyễn Du đã phải lặn ngụp giữa bể dâu, để chở che, cứu vớt bao nhiêu kiếp người mệnh bạc. Ông dành tình thương cả cho những oan hồn không chốn nương thân. Chủ nghĩa nhân văn mà ông suốt đời theo đuổi đã kết tinh thật xuất thần trong áng văn bất hủ: Văn tế thập loại chúng sinh. Văn tế thập loại chúng sinh, còn gọi là Văn chiêu hồn, đã giúp hậu thế hiểu thêm tầm vĩ đại của tư tưởng Nguyễn Du. Tác phẩm mang màu sắc Phật giáo, lưu truyền trong những ngôi chùa cổ; hoà quyện cùng tiếng mõ, lời kinh. Thế mà, càng nghe, càng chiêm nghiệm, ta càng nhận ra âm vang, màu sắc của cõi đời. Trong tác phẩm, nhà thơ đâu hẳn nói về thế giới bên kia. Khóc người chết mà hóa ra thương người đang sống. Âm vang tác phẩm vượt khỏi xứ Phật, lan khắp cõi trần ai, thấm thật sâu vào buồng tim nhân ái của vạn triệu con người. * Trước hết, ta thử tìm hiểu những tiền đề góp phần tạo nên một Văn chiêu hồn bất hủ. Có thể nói, nếu không ra đời giữa thời buổi "thay đổi sơn hà", không cất lên từ tấm lòng thương người mênh mông của Nguyễn Du, chưa chắc Văn chiêu hồn có được sức sống và tầm vóc như hôm nay. Ta quay về thời đại Nguyễn Du. Nửa cuối thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX, những mầm mống đầu tiên, cơ sở hình thành trào lưu nhân đạo chủ nghĩa ở Việt Nam, bắt đầu nảy nở. Đó là sự xuất hiện những đô thị, khởi sự một nền kinh tế hàng hóa. Từ đó, manh nha hình thành tầng lớp thị dân. Tầng lớp này lớn lên nhờ điểm tựa ý thức hệ tư sản. Con người thời này bắt đầu nhận thức về "cái tôi", "đốn ngộ" được tư cách cá nhân mình giữa xã hội, trong cuộc đời. Con người bắt đầu biết quý, biết coi trọng quyền sống cá nhân của mình. Bên cạnh đó, những cuộc khởi nghĩa nông dân lần lượt bùng nổ, thách thức và làm lung lay tường thành phong kiến. Chúng góp phần khơi thêm ngọn lửa đấu tranh đòi quyền sống, quyền bình đẳng cho con người. Sống và cảm nhận giữa lòng thời đại như thế, Nguyễn Du gởi cho người khúc ca não ruột: Văn chiêu hồn . Và thêm nữa, tư tưởng nhân văn tiến bộ ấy lại được bùng phát từ khoảnh khắc thiêng của cảm hứng sáng tạo, bởi một tài năng xuất chúng, Văn chiêu hồn đã trở thành kiệt tác. Thử lùi xa hơn, ta không quên, văn học Việt Nam từng có một Thập giới cô hồn quốc ngữ văn của vua Lê Thánh Tông. Vị vua giàu đức nhân này nghĩ về những kiếp người, vì mệnh bạc phải ra cô hồn vất vưởng. Nhưng tác phẩm của ông, với lối văn biền ngẫu, qua bài kệ luật Đường, đã không len lỏi được, lan rộng tới quảng đại quần chúng. Lại nữa, tác phẩm ấy còn mang lời lẽ, khẩu khí của một ông vua, ngồi từ ngôi cao, mà khuyên răn bá tánh (giới), thành ra khó chan hòa cùng nước mắt sùi sụt của lê dân. Trong khi đó, Văn chiêu hồn của Nguyễn Du lại tuôn chảy theo thể thơ song thất lục bát, thiết tha trầm bổng. Tác phẩm này mới thật sự là tiếng khóc (tế). Nguyễn Du viết về mười sáu loại người bất hạnh, trong tư cách một số phận đã, đang, rồi cũng phải chìm trong bể khổ. Viết Văn chiêu hồn, Nguyễn Du viết cho người mà thành ra như viết cho mình. Gan ruột và nước mắt giãi bày cả ra, chính vì lẽ đó. * Trước khi tìm hiểu chủ nghĩa nhân văn của Nguyễn Du trong Văn chiêu hồn, thiết nghĩ, ta nên hình dung đôi nét về chủ nghĩa nhân văn trong thời đại của ông. Như đã nói, thời đại Nguyễn Du là buổi "thay đổi sơn hà". Trào lưu nhân đạo chủ nghĩa thời này xoay quanh hai bình diện: phê phán những thế lực phong kiến chà đạp con người; đề cao con người, đề cao cuộc sống trần tục của kiếp nhân sinh. Nó là sự kế thừa và nâng cao tinh thần nhân văn trong văn học cổ Việt Nam thời trước. Dưới ánh sáng của chủ nghĩa nhân văn, văn học cổ Việt Nam quan tâm sâu sắc đến những con người bình thường, phải chịu nhiều nhọc nhằn, bất hạnh, tai ương. Văn học gần gũi, cận kề con người trong cơn hoạn nạn. Không dừng lại suy nghĩ, triết lý về số phận, về đời người, văn học tìm phương cách cứu giúp con người bớt khổ. Văn học luôn đề cao lối ứng xử tình nghĩa, thủy chung, phải đạo, trong quan hệ giữa người với người. Ở đó, con người, theo tinh thần nhân văn, luôn chuộng lối sống khoan dung, chan hòa. Xã hội không chấp nhận chủ nghĩa cá nhân cực đoan. Ngược lại, nó luôn tìm cách hóa giải cách biệt giữa cá nhân và cộng đồng, tạo mối dây hài hòa giữa lương tâm và bổn phận. Con người, khi đó, thiên về đạo lý, đạo đức, chứ không theo bình diện triết học. * Đọc Văn tế thập loại chúng sinh, ta tìm thấy một hệ thống dẫn chứng, minh họa sống động cho những tư tưởng nhân văn này. Với 184 câu thơ song thất lục bát, tác phẩm khởi hành từ cõi dương thế, trong bối cảnh đầu thu "mưa dầm sùi sụt" để nhìn về âm phủ. Não nùng trước bao khổ nạn, nhà thơ kêu gọi những linh hồn vất vưởng cùng về dự đàn giải thoát. Cảm xúc ngày càng thống thiết, Tố Như khóc thương cho hơn mười loại người bất hạnh "hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người". Cuối cùng, tác phẩm khép lại bằng lời khuyên các cô hồn nên thờ Phật giải oan cứu khổ. Là một nhà nhân văn chủ nghĩa, Nguyễn Du luôn trải rộng lòng mình để hứng lấy, chở che những kiếp người bất hạnh. Ông đặc biệt quan tâm đến những con người bình thường trong xã hội. Ngoài sáu hạng người sống trong phú quý, tác phẩm dồn hết yêu thương cho những kiếp người vô danh, sống và chết trong lặng lẽ. Họ là những kẻ vào sông ra bể, đi về buôn bán, có người phải buôn nguyệt bán hoa, lại có kẻ mắc vào khóa lính. Đâu đó vất vưởng kiếp hành khất ngược xuôi… Cả một xã hội rộng lớn như được thu nhỏ, hiện lên toàn những gương mặt "cuồn cuộn đau thương cháy dưới trời" (thơ Huy Cận). Thật hiếm ở đâu như bài văn tế này, nơi hội tụ toàn những cái chết bi thương. Viết Văn chiêu hồn, nhà thơ không đứng từ đài cao quý tộc để cúi xuống cất lời răn bảo. Ông đi từ sự đồng cảm, tri âm. Lòng trắc ẩn khiến ông khóc thương cho những oan hồn. Nói về họ, ông như đang đối thoại với người đang sống, với những số phận nhọc nhằn, tủi nhục suốt một kiếp phù sinh. Ngày nào, họ vẫn sống như bao cuộc đời bình thường. Bỗng đâu, tai nạn bất ngờ úp chụp. Họ đành chết một cách tức tửi, đớn đau. Tinh thần nhân văn khiến nhà thơ ngậm ngùi, suy tưởng về cõi dương thế, nơi những người xấu số đã trải qua. Ông viết về cõi âm của những oan hồn, nhưng lại lấy cõi người, con người làm trọng. Mỗi dòng thơ của ông là một dòng nước mắt, khóc cho nỗi nhọc nhằn, cơ cực của đời người. Đây là nỗi khổ của người đi về mua bán: "Đòn gánh tre chín dạn hai vai" Chỉ một chiếc đòn gánh tre mà gợi ra bao nẻo đường vạn dặm, bao chặng đời tảo tần, gồng gánh của kẻ xuôi ngược tìm manh áo miếng cơm. Nguyễn Du như đang viết về phần gánh nặng đang hằn trên bờ vai gầy guộc của chính mình. Nhà thơ mở lòng sẻ chia với những thân phận "dãi dầu nghìn dặm, lầm than một đời". Ông nghẹn ngào cho bao số kiếp "sống nhờ hàng xứ, chết vùi đường quan", sớm hôm chịu cảnh "thở than dưới đất, ăn nằm trên sương". Lúc nào, bao giờ, ông cũng bị ám ảnh nặng nề bởi số kiếp con người: "Cũng có kẻ lỡ làng một kiếp" "Kiếp sinh ra thế, biết là tại đâu?" "Thương thay cũng một kiếp người" "Kiếp nào cởi được oan tình ấy đi" "Kiếp phù sinh như hình như ảnh Có chữ rằng vạn cảnh giai không" Tình yêu thương mênh mông của Nguyễn Du không đứng trên lập trường của tầng lớp phong kiến thống trị. Không hề có sự ban ơn. Nó cũng không đơn thuần là tiếng thở dài, mặc nhiên cam chịu của triết lý nhà Phật. Phật giáo giải thích số kiếp mỗi người đều do chính mình đã gieo nhân nên gặt quả. Con người không nên than vãn vô ích về số kiếp của mình, mà chỉ nên tìm cách cởi dần oan trái, thoát khỏi luân hồi. Quan niệm của Nguyễn Du không đơn thuần như thế. Nó còn bám rễ lên cây từ những biến động, quan hệ phức tạp của cuộc đời. Ông nhận ra nhiều oan trái từ giữa lòng xã hội phong kiến hà khắc, bất công. Qua những vần thơ ông, đã lộ diện một xã hội đói nghèo, khốn quẫn. Nếu không thế, sao đến nỗi bao người phải liều thân "vào sông ra bể", tần tảo "đi về mua bán", hay sa vào thảm cảnh "hành khất ngược xuôi"? Và đất nước không chiến tranh, loạn lạc, thử hỏi sao có "kẻ mắc vào khóa lính", thêm biết bao "mạng người như rác". Những lúc này, Nguyễn Du thật sự đớn đau và nhức nhối trước cõi phù sinh. Sau mỗi dòng thơ, ông hạ xuống dấu chấm than, nhưng neo lại cho đời chấm hỏi. Đó chính là câu hỏi lớn, đầy bế tắc của thời đại bấy giờ. * Nghĩ về những con người bình thường, bất hạnh, nhà thơ dành tấc lòng ưu ái nhất cho người phụ nữ, đặc biệt là những kẻ "liều tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa". Định kiến xã hội xưa luôn ném cái nhìn khinh miệt đối với chuyện tà dâm, trút hết tội lỗi vào thân phận người phụ nữ lỡ làng. Trong Văn chiêu hồn, tuy không khai thác được tận cùng bi kịch của họ như ở Đoạn trường tân thanh nhưng Nguyễn Du vẫn kịp viết những dòng thơ rung cảm nhất về kiếp người này. Nhìn họ đang thời xuân sắc, nhà thơ giật mình nghĩ đến ngày mai, thời gian nghiệt ngã sẽ cuốn xô họ vào những bãi bờ cô độc, hẩm hiu: "Ngẩn ngơ khi trở về già Ai chồng con tá, biết là cậy ai" Cảm thương người kỹ nữ đến dường ấy, trước và cùng thời Nguyễn Du có được bao người? Thế rồi, từ những mảnh đời riêng lẻ, nhà thơ nhìn ra nỗi đau chung của phận đàn bà: "Đau đớn thay, phận đàn bà, Kiếp sinh ra thế, biết là tại đâu?" Lời thơ trĩu nặng nhân tình như còn ám ảnh đến hôm nay, khi đâu đó vẫn còn phân biệt đối xử với người phụ nữ. Chính tinh thần nhân văn đã đưa tư tưởng Nguyễn Du băng qua nhiều thế kỷ. Lời thơ ông cất lên tiếng kêu khẩn thiết: hãy thấu hiểu và quan tâm đến những thiệt thòi, bất hạnh của người phụ nữ. Họ vẫn mãi là những người đáng thương trong những kiếp người bình thường, bất hạnh. * Càng suy gẫm về những kiếp người cơ cực trong Văn chiêu hồn, ta càng sững sờ trước tầm nhìn thấu "sáu cõi" của nhà thơ. Nguyễn Du vẫn luôn là người đi trước thời đại. Không dừng ở hồi chuông giải oan cho người phụ nữ, ông còn gióng thêm hồi chuông cứu vớt linh hồn những hài nhi xấu số: "Kìa những kẻ tiểu nhi tấm bé, Lỗi giờ sinh, lìa mẹ lìa cha. Lấy ai bồng bế vào ra, U ơ tiếng khóc, thiết tha nỗi lòng". Quan tâm tới đối tượng này, Nguyễn Du càng khẳng định thêm tinh thần nhân văn của mình. Trong tâm thức con người thời phong kiến, chưa bao giờ hài nhi được quan tâm như một số phận có quyền sống và nhu cầu được sống. Chỉ có người cao tuổi mới đáng được đời quan tâm, trọng vọng. Văn học trung đại nhiều thế kỷ, vì thế, chẳng có lấy một vần thơ về trẻ con. Vậy mà, lần đầu tiên, Nguyễn Du lại dành nước mắt xót thương khóc chúng. Lần đầu tiên, Nguyễn Du mạnh dạn đưa tiếng khóc hài nhi vào văn học. Với nhà thơ, dẫu mới chào đời nhưng chúng vẫn có tư cách và quyền sống của một con người. Nguyễn Du thương chúng không được hưởng những quyền tối thiểu của một trẻ thơ: được bồng bế, nâng niu. Nhà thơ đứt ruột bởi tiếng khóc ngây thơ, ngắn ngủi của chúng: "U ơ tiếng khóc, thiết tha nỗi lòng". Có thể thấy, với Nguyễn Du, ngay khi cất tiếng chào đời, trẻ con đã là một con người, có quyền bình đẳng với bao nhiêu người lớn. Nhà thơ trách tạo hóa phũ phàng, để những hài nhi "lỗi giờ sinh" phải sớm từ biệt cõi đời. Từ niềm trắc ẩn về những hài nhi, nhà thơ như muốn gởi cho đời thông điệp: được sống, đó là quyền tối thiểu của mỗi con người. * Trong Văn chiêu hồn, Nguyễn Du không chỉ quan tâm mà còn tìm cách cứu vớt con người thoát cơn hoạn nạn, làm phương giúp con người bớt khổ. Nhà thơ đã bộc lộ nghĩa cử nhân ái đầu tiên, khi nhắc lại phần đời gian khổ của những người bất hạnh. Xưa nay, người xấu số thường là kẻ bị đời quên lãng. Lúc sống, họ không được ai cứu giúp, quan tâm. Ngay phút vật vã cuối cùng, họ cũng chẳng được một ai cận kề, an ủi. Mượn văn chương, nhà thơ nhắc lại phần cuộc sống trên cõi dương thế của họ. Tuy có muộn màng nhưng đó cũng là một chút an ủi, tưởng nhớ những ai đã phải sống và chết trong sự ghẻ lạnh của đời. Những oan hồn phiêu bạt kia, được một kẻ dương trần nhớ thương, thấu hiểu, hẳn cũng ngậm cười nơi chín suối. Trong mắt Nguyễn Du, mấy ai thoát được vòng bất hạnh, dù là những kẻ một thời nệm ấm chăn êm. Mấy ai ngờ rằng, những "kẻ mũ cao áo rộng" vẫn có ngày chịu cảnh không người lo "bát nước nén nhang"? Đến với những số phận này, lời thơ Nguyễn Du thắp lên một nén tâm hương, ngõ giúp oan hồn bớt bơ vơ, lạnh lẽo. Không giúp được oan hồn sống lại, nhưng nhà thơ không muốn họ tiếp tục vất vưởng bụi bờ, nhà thơ lập đàn giải thoát chúng sinh. Không phải tín đồ nhà Phật, nhưng nhà thơ lụy đến bàn tay Phật pháp vô biên. Tinh thần nhân văn đưa nhà thơ tìm về tư tưởng từ bi của Phật giáo. Lòng bác ái, hướng thiện của nhà Phật có thể giúp con người thoát vòng lầm lạc, u mê. Những người đang sống, nếu trao gởi niềm tin nơi Phật, thường vơi đi bao sợ hãi, âu lo về cái chết. Mượn lời Phật dạy, Nguyễn Du khẩn thiết kêu gọi mọi người hãy cùng quan tâm, nhìn lại những số phận còn bị xích xiềng tội lỗi. Ông vẫy gọi những oan hồn vất vưởng: "Ai đến đây dưới trên ngồi lại Của làm duyên chớ ngại bao nhiêu. Phép thiêng biến ít thành nhiều, Trên nhờ Tôn giả chia đều chúng sinh" Theo lẽ thường, một khi gởi gắm niềm tin vào đấng siêu nhiên, con người dễ đánh mất mình, mất cả niềm tin vào bản thân. Nhưng qua những vần thơ thống thiết, Nguyễn Du đâu hề thủ tiêu bản ngã. Con người yếu đuối nơi cõi trần kia vẫn mãi tràn đầy khát khao và nghị lực, lúc nào cũng hừng hực nhiệt thành cứu vớt muôn triệu chúng sinh. Nghĩa cử cao quý ấy, cho dù có lúc phải nương tựa vào tôn giáo, nhưng vẫn là biểu hiện ngời sáng của một tinh thần nhân văn: mong muốn đem lại hơi ấm, sự sống cho mọi con người. * Cũng với tinh thần nhân văn, khi nghĩ về những oan hồn, Nguyễn Du không hề thoát ly mối quan hệ phức tạp giữa những người đang sống. Ông luôn đề cao lối ứng xử tình nghĩa giữa người và người. Ông nương theo lối sống biết người biết ta, luôn xem nỗi khổ của người như nỗi khổ của mình. Trong tác phẩm, nhà thơ đã bao lần hóa thân vào cảnh khổ của người, thương xót cho người: "Đau đớn thay, phận đàn bà" "Thương thay cũng một kiếp người" "Thương thay thập loại chúng sinh" "Thương thay chân yếu tay mềm" "Tiếng oan văng vẳng, tối trời càng thương" "Lòng nào lòng chẳng thiết tha Cõi dương còn thế nữa là cõi âm" Có thể thấy, hơn ai hết, Nguyễn Du chính là mẫu mực sống cho lối ứng xử tình nghĩa, phải đạo. Nhà thơ luôn đặt mình vào cảnh khổ người khác để suy gẫm về nhân thế. Thương người đang sống, nhà thơ thương cả khi họ đã lìa đời. * Tinh thần nhân văn của Nguyễn Du, trong tác phẩm, còn biểu hiện qua thái độ chuộng khoan dung, khoan hòa. Ông không chấp nhận chủ nghĩa cá nhân cực đoan. Ông đề cao sự hòa giải giữa cá nhân và cộng đồng, giữa lương tâm và bổn phận. Một điểm nổi bật trong Văn chiêu hồn chính là sự cổ xúy cho mối quan hệ bình đẳng giữa người và người. Sống giữa lòng xã hội phong kiến, bản thân là trí thức bậc cao, nhưng Nguyễn Du lại tạo ra một thế giới nghệ thuật có sự hòa đồng giữa hèn - sang, tiểu nhân và quân tử,… Trước đó, ta dễ gì tìm được những vần thơ tiến bộ dường này: "Còn chi ai quý, ai hèn Còn chi mà nói kẻ hiền, người ngu" Nguyễn Du dường như nghĩ nhiều về sự bình đẳng của mọi người trước cái chết. Con người có thể hơn thua nhau lúc sinh thời, kẻ bề trên có thể đọa đày tầng lớp dưới,… nhưng khi nhận lãnh cái chết, mọi ranh giới, sự cách biệt đều phải tiêu tan. Phải chăng, khi chọn đề tài về cái chết, về cõi âm, nhà thơ muốn gởi vào đó một triết lý thâm trầm: nghĩ về cái chết, đó là cách con người nhận thức sâu sắc nhất về cuộc sống, về "cõi người ta". Thành ra, những ai từng đọc Nguyễn Du, mỗi lần đối diện cái chết của con người, sẽ càng thêm nâng niu sự sống. Về phương diện này, tác phẩm của Nguyễn Du giúp người đọc biết nhìn ra cái tôi ích kỷ, biết ăn năn và mong ước hòa nhập, bình đẳng với cộng đồng. Phiêu du vào thế giới oan hồn, Nguyễn Du đâu chỉ nói chuyện với người đã khuất. Nhà thơ còn gởi biết bao thông điệp cho người đang sống. Hơn thua, tranh giành, sát hại nhau làm gì? Chạy đuổi tiền tài, địa vị hư ảo làm chi? Hãy nhìn những cái chết của bao người tham vọng! Tuy không là nhà cải cách xã hội, nhưng qua việc tạo ra một âm giới không có sự phân biệt, oán thù, Nguyễn Du đã góp phần cổ xúy cho một xã hội tốt đẹp. Trong xã hội ấy, con người đồng cảm với nhau, biết xích lại gần nhau, biết xem nỗi bất hạnh của người khác cũng là bất hạnh của chính thân mình. * Trong Văn chiêu hồn, tư tưởng nhân văn của Nguyễn Du thiên về tính chất đạo lý, đạo đức, chứ không thiên về bình diện triết học. Cõi dương thế mà nhà thơ miêu tả có vẻ không thuộc về một triều đại nào. Cảnh tượng đa phần là sự biến đổi của thiên nhiên, trời đất. Thảng hoặc, có cảnh sa trường, gươm giáo. Nhưng càng ngẫm, ta càng nhận ra dấu ấn của thời đại đầy biến động, bế tắc mà Nguyễn Du đang sống. Nhà thơ miêu tả nó bằng thái độ ngầm chán ngán và ghê sợ. Trải suốt 184 câu thơ, cảnh dương thế hiện ra đầy ảm đạm, thê lương. Đó là sự biến chuyển của đất trời: "mưa dầm sùi sụt, lạnh buốt xương khô, bóng chiều man mác, lác đác sương sa, mưa sa ngói lở, gió mưa sấm sét đùng đùng, mưa gào gió thét, ngàn mây nội cỏ dầu dầu, gió trăng hiu hắt, dông tố giữa dòng,…". Vũ trụ ấy, thử hỏi, làm sao là nơi sinh tụ một cuộc sống thịnh vượng, thái bình? Thiên nhiên như cũng lở tan, thét gào cùng với giông bão đời người. Trời đất như cũng hiu hắt, sùi sụt cùng những khổ đau, oan trái của muôn vạn sinh linh. Lại còn đây nữa, khung cảnh trần ai đầy chuyện chiến tranh, chết chóc: "bãi sa trường, tên rơi đạn lạc, mạng người như rác,…" Đâu đâu cũng thấy chực chờ những hiểm họa, tai ương: "chìm sông lạc suối, sẩy cối sa cây, nước lũ, lửa thành, sơn tinh thủy quái, nanh sói ngà voi,…". Và đâu đâu cũng có những phận người chìm nổi, bi thương: "lênh đênh quê người, lìa cửa lìa nhà, tha phương, vợ con nào nuôi nấng khem kiêng, nằm cầu gối đất, sống nhờ hàng xứ, chết vùi đường quan,…". Cuộc đời con người phải luôn bám víu vào sự rủi may, tạm bợ: "quán nọ cầu này, đầu chợ cuối sông, quãng đồng không,…". Khi chết, linh hồn họ cũng bơ vơ, phiêu bồng như lúc sống: "Dãi dầu trong mấy mươi năm, Thở than dưới đất, ăn nằm trên sương". Những vần thơ viết về âm cảnh khác nào thước phim âm bản, mà Nguyễn Du đã ghi lại sống động từ "cõi người ta". Những vần thơ ấy là một chuỗi âm vang những lời tố khổ của nhà thơ đối với thời đại bấy giờ. Bởi luôn bám cội rễ vào cuộc đời nên thi nhân không ngăn được lời suy tư ai oán: "Cõi dương còn thế nữa là cõi âm". Rõ ràng, ông thật sự chán ngán và ghê sợ chốn dương trần. Với ông, "những điều trông thấy" khác nào một địa ngục trần gian. Chúng sẵn sàng vùi chôn, hủy diệt tất cả sự sống, quyền sống, quyền hạnh phúc của con người. Bởi lấy con người làm trọng, nhà thơ không giấu được thái độ bất mãn với thời cuộc. Bởi nhân danh đạo lý, đạo đức của quần chúng, ông phản ứng với cuộc đời đầy bi thảm, loạn ly. * Tuy tiếng nói chống lại chế độ xã hội chưa rõ nét nhưng giọng điệu phê phán trong tác phẩm đã trỗi lên mạnh mẽ. Nhà thơ nghiêm khắc phê phán những hạng người chạy đuổi theo tiền bạc, hư danh. Tinh thần phê phán này đã khởi lên ngay khi nhà thơ bắt đầu khóc cho những kiếp người. Ông luận bàn về những kẻ "tính đường kiêu hãnh", sống giữa "màn loan trướng huệ", rồi những kẻ "mũ cao áo dài", mê mải "bày binh bố trận", hoặc "tính đường trí phú", hay "rắp cầu chữ quý". Cả sáu hạng người bất hạnh, cùng xuất thân quý tộc, hoặc cố ngoi lên thành quý tộc, đều được tác giả thương cảm hết lòng nhưng phán xét cũng thật phân minh. Tình thương của nhà thơ dành cho họ thế nào, hẳn đã rõ. Riêng phần phán xét về họ ra sao? Xuất thân từ thế gia vọng tộc nhưng nhà thơ lại kịch kiệt phê phán những ai muốn đeo đuổi hoặc khư khư ôm lấy cuộc sống sang giàu, kiêu hãnh. Sự trải nghiệm sâu sắc về cuộc đời đã khiến tác giả nhận ra hố sâu ngăn cách giữa giàu – nghèo, sướng – khổ, cũng như mầm mống bất hạnh. Tất cả đều có từ lối sống theo bả lợi danh. Nguyễn Du tỏ ra không thiện cảm với những kẻ thích cậy mình "cung quế Hằng Nga", hay mê mải "rắp cầu chữ quý, dấn thân vào thành thị lân la". Ông nhìn phú quý như một thứ phù du, một mầm di hại. Bởi lẽ, "giàu sang càng nặng oán thù", hoặc "thịnh mãn lắm oán thù càng lắm". Tiền vàng, với ông, chỉ là thứ của phù vân, làm sao đổi được mạng người: "Nghìn vàng khôn đổi được mình" "Sống thời tiền chảy bạc ròng, Thác không đem được một đồng nào đi" Chưa kể, khi chết rồi, không ít kẻ giàu sang vẫn cảnh mồ hoang lạnh; "Khi sao đông đúc vui cười, Mà khi nhắm mắt, không người nhặt xương". Ngẫm ra, đó cũng là hệ quả của một thói đời, khi ai nấy chỉ biết sống vì bạc tiền, địa vị. Sự bạc phước của những kẻ khinh người, cao ngạo, phải chăng cũng là một dạng quả báo mà nhà Phật đã từng răn giới? Giọng điệu phê phán còn hướng về những kẻ dự phần gây nên chiến tranh, ly loạn. Họ như con thiêu thân, lao vào "buổi tranh hùng", cố "đổi mình vào lấy ấn nguyên nhung". Sự xả thân của họ, kỳ thực, chỉ là một hành động u mê: "dãi thây trăm họ làm công một người". Thương mà tức cho kẻ lầm đường, Nguyễn Du đồng thời phê phán những cuộc chiến tranh phi nghĩa. Theo ông, lối sống, hành động bạo tàn của họ là nguyên nhân không dứt của biết bao thảm cảnh, gây ra bao cái chết tức tửi cho thường dân vô tội. Phê phán chiến tranh phi nghĩa, đó cũng là biểu hiện cụ thể của tinh thần bảo vệ quyền sống, sự sống của mọi người trên đất nước mình, trong 'cõi người ta". * Nói tóm lại, Văn tế thập loại chúng sinh, hay Văn chiêu hồn, là một tác phẩm tràn đầy tinh thần nhân văn. Tác phẩm là biểu hiện sống động cho chủ nghĩa nhân văn của Nguyễn Du. Nhà thơ khóc người đã khuất, nhưng hóa ra, nghẹn ngào tâm sự với người đang sống. Nhà thơ làm cuộc hành trình đến cõi âm, nhưng cuối cùng, làm cuộc khúc xạ, quay ngược về "chốn trần ai". Ông nói về quá khứ, nhưng kỳ thực, đang nhìn hiện tại và nghĩ tận ngày mai. Bài văn tế còn mang ý nghĩa một lời dự báo: ngày nào còn cái xã hội đầy bão giông biến động này, ngày ấy con người sẽ còn sa vào hố sâu bất hạnh. Rồi đây, con người sẽ còn chịu cảnh trầm luân cùng "thập loại chúng sinh", nếu không kịp thời bừng tỉnh, thoát khỏi vòng mê đắm của phú quý vinh hoa,… Vượt qua thời gian, bài văn tế cứ lặng lẽ tan thấm, hằn sâu vào trái tim người đọc, người nghe. Nó tỏa ra một sức chấn động vô biên, có sức mạnh làm thay đổi tư tưởng, cách sống con người. Sau Đoạn trường tân thanh, tác phẩm cũng là một tiếng khóc lớn, mang tầm thời đại. Nó cũng có tư cách một bài thơ trữ tình dài hơi, tầm vóc in vào thế kỷ. Tạo được những hiệu quả và giá trị lớn lao đó, bởi tác phẩm đã cháy lên từ lò lửa của chủ nghĩa nhân văn, vừa phát khởi từ thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX. Tác phẩm còn được nuôi dưỡng bền lâu bởi ngọn lửa chủ nghĩa nhân văn của chính đại thi hào dân tộc Nguyễn Du. |
No comments: