Bài văn đạt điểm 10 - Kỳ thi tuyển sinh ĐH năm 2005
Bài văn đạt điểm 10
Kỳ thi tuyển sinh ĐH năm 2005
Môn Văn, khối D (thời gian làm bài 180 phút, không kể thời gian phát
đề).
Câu I: (2 điểm): Anh/chị hãy trình bày những nét chính trong sự
nghiệp thơ văn của Xuân Diệu.
Câu II: (5 điểm): Phân tích vẻ đẹp của tình người và niềm hy vọng
vào cuộc sống ở các nhân vật: Tràng, người vợ nhặt, bà cụ Tứ trong truyện ngắn
Vợ nhặt (Kim Lân).
Câu III: (3 điểm): Bình giảng đoạn thơ sau trong bài Kính gửi cụ
Nguyễn Du của Tố Hữu:
Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày
Hỡi Người xưa của ta nay
Khúc vui xin lại so dây cùng Người
(Văn học 12, Tập một, NXB Giáo dục, tái bản 2004, tr.160)
Bài làm
Câu 1:
Xuân Diệu
(1916-1985) - một nghệ sĩ lớn, một nhà văn hóa lớn của dân tộc, đã để lại cho
đời một sự nghiệp sáng tác thật lớn lao và rất có giá trị. Hơn năm mươi năm lao
động miệt mài trong thế giới nghệ thuật ấy, con người và thơ văn của Xuân Diệu
đã có sự chuyển biến rõ nét từ một nhà thơ lãng mạn thành nhà thơ cách mạng. Đó
là bước chuyển tất yếu của một trí thức yêu nước, một tài năng nghệ sĩ. Thơ văn
Xuân Diệu có đóng góp lớn vào quá trình phát triển của văn học Việt Nam . Có thể tìm
hiểu sự nghiệp văn học của nhà thơ qua thơ và văn xuôi:
Về lĩnh vực thơ
ca, chúng ta có thể tìm hiểu qua hai giai đoạn chính, trước và sau cách mạng
tháng Tám. Trước cách mạng tháng Tám, Xuân Diệu là một nhà thơ lãng mạn. Các
tác phẩm chính: tập thơ "Thơ thơ" (1938) và "Gửi hương cho
gió" (1945). Nội dung của thơ Xuân Diệu trong thời kỳ này là: Niềm say mê
ngoại giới, khát khao giao cảm trực tiếp, cháy bỏng, mãnh liệt với cuộc đời
("Vội vàng", "Giục giã"). Nỗi cô đơn rợn ngợp của cái tôi
bé nhỏ giữa dòng thời gian vô biên, giữa không gian vô tận (Lời kỹ nữ). Nỗi ám
ảnh về thời gian khiến nhà thơ nảy sinh một triết lý về nhân sinh: lẽ sống vội
vàng ("Vội vàng"). Nỗi khát khao đến chảy bỏng được đắm mình trọn vẹn
giữa cuộc đời đầy hương sắc và thể hiện nỗi đau đớn, xót xa trước khát vọng bị
lãng quên thật phũ phàng trước cuộc đời ("Dại khờ", "Nước đổ lá
khoai").
Sau cách mạng,
thơ Xuân Diệu đã vươn tới chân trời nghệ thuật mới, nhà thơ đã đi từ "cái
tôi bé nhỏ đến cái ta chung của mọi người" (P.Eluya). Xuân Diệu giờ đây đã
trở thành một nhà thơ cách mạng say mê, hăng say hoạt động và ông đã có thơ hay
ngay trong giai đoạn đầu. Xuân Diệu chào mừng cách mạng với "Ngọn quốc
kỳ" (1945) và "Hội nghị non sông" (1946) với tấm lòng tràn đầy
hân hoan trước lẽ sống lớn, niềm vui lớn của cách mạng.
Cùng với sự đổi
mới của đất nước, Xuân Diệu có nhiều biến chuyển trong tâm hồn và thơ ca. Ý
thức của cái Tôi công dân, của một nghệ sĩ, một trí thức yêu nước trước thực tế
cuộc sống. Đất nước đã đem đến cho ông những nguồn mạch mới trong cảm hứng sáng
tác. Nhà thơ hăng say viết về Đảng, về Bác Hồ, về Tổ quốc Việt Nam ,
về quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội miền Bắc và công cuộc thống nhất nước
nhà. Các tác phẩm tiêu biểu: tập "Riêng chung" (1960), "Hai đợt
sóng" (1967), "tập "Hồn tôi đôi cánh" (1976)...
Từ những năm sáu
mươi trở đi, Xuân Diệu tiếp tục viết thơ tình. Thơ tình Xuân Diệu lúc này không
vơi cạn mà lại có những nguồn mạch, cảm hứng mới. Trước cách mạng, tình yêu
trong thơ ông hầu hết là những cuộc tình xa cách, cô đơn, chia li, tan vỡ...
Nhưng sau cách mạng, tình yêu của hai con người ấy không còn là hai vũ trụ bé
nhỏ nữa mà đã có sự hòa điệu cùng mọi người. Tình cảm lứa đôi đã hòa quyện cùng
tình yêu tổ quốc. Xuân Diệu nhắc nhiều đến tình cảm thủy chung gắn bó, hạnh
phúc, sum vầy chứ không lẻ loi, đơn côi nữa (Dấu nằm", "Biển",
"Giọng nói", "Đứng chờ em").
Về lĩnh vực văn
xuôi có thể nói Xuân Diệu quả thật tài tình. Bên cạnh tố chất thơ ca bẩm sinh
như thế, Xuân Diệu còn rất thành công trong lĩnh vực văn xuôi. Các tác phẩm
chính: "Trường ca" (1939) và "Phấn thông vàng" (1945). Các
tác phẩm này được Xuân Diệu viết theo bút pháp lãng mạn nhưng đôi khi ngòi bút
lại hướng sang chủ nghĩa hiện thực ("Cái hỏa lò", "Tỏa nhị
Kiều").
Ngoài ra, Xuân
Diệu còn rất tài tình trong việc phê bình văn học, dịch thuật thơ nước ngoài.
Các tác phẩm tiêu biểu: "Kí sự thăm nước Hung", "Triều
lên", "Các nhà thơ cổ điển Việt Nam ", "Dao có mài mới
sắc".
Dù ở phương diện
nào, Xuân Diệu cũng có đóng góp rất to lớn với sự nghiệp văn học Việt Nam .
Vũ Ngọc Phan từng nhận xét "Xuân Diệu là người đem nhiều cái mới nhất cho
thơ ca hiện đại Việt Nam ".
Sự đóng góp của Xuân Diệu diễn ra đều đặn và trọn vẹn trong các thể loại và các
giai đoạn lịch sử của dân tộc. Chính vì thế có thể nói rằng Xuân Diệu xứng đáng
là một nhà thơ lớn, nhà văn hóa lớn.
Câu 2:
Nạn đói khủng
khiếp và dữ dội năm 1945 đã hằn in trong tâm trí Kim Lân-một nhà văn hiện thực
có thể xem là con đẻ của đồng ruộng, một con người một lòng đi về với
"thuần hậu phong thủy" ấy. Ngay sau Cách mạng, ông đã bắt tay viết
ngay tiểu thuyết "Xóm ngụ cư" khi hòa bình lập lại (1954), nỗi trăn
trở tiếp tục thôi thúc ông viết tiếp thiên truyện ấy. Và cuối cùng, truyện ngắn
"Vợ nhặt" đã ra đời. Trong lần này, Kim Lân đã thật sự đem vào thiên
truyện của mình một khám phá mới, một điểm sáng soi chiếu toàn tác phẩm. Đó là
vẻ đẹp của tình người và niềm hi vọng vào cuộc sống của những người nông dân
nghèo tiêu biểu như Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ. Thiên truyện thể hiện rất
thành công khả năng dựng truyện, dẫn truyện và đặc sắc nhất là Kim Lân đã có
khám phá ra diễn biến tâm lý thật bất ngờ.
Trong một lần
phát biểu, Kim Lân từng nói "Khi viết về nạn đói người ta thường viết về
sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến
những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý
khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người
ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở
tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con người". Và điểm sáng mà nhà
văn muốn đem vào tác phẩm chính là ở chỗ đó. Đó chính là tình người và niềm hi
vọng về cuộc sống, về tương lai của những con người đang kề cận với cái chết.
Bằng cách dẫn truyện, xây dựng lên tình huống "nhặt vợ" tài tình kết
hợp với khả năng phân tích diễn biến tâm lý nhân vật thật tinh tế và sử dụng
thành công ngôn ngữ nông dân, ngôn ngữ dung dị, đời thường nhưng có sự chọn lọc
kỹ lưỡng ấy, nhà văn đã tái hiện lại trước mắt ta một không gian năm đói thật
thảm hại, thê lương. Trong đó ngổn ngang những kẻ sống người chết, những bóng
ma vật vờ, lặng lẽ giữa tiếng hờ khóc và tiếng gào thét kinh hoàng của đám quạ.
Bằng tấm lòng đôn hậu chân thành nhà văn đã gửi gắm vào trong không gian tối
đen như mực ấy những mầm sống đang cố vươn đến tương lai, những tình cảm chân
thành, yêu thương bình dị nhưng rất đỗi cao quý ấy và nhà văn đã để những số
phận như anh Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ được thăng hoa trước ngọn cờ đỏ
phấp phới cùng đám người đói phá kho thóc Nhật ở cuối thiên truyện.
Có thể nói rằng,
Kim Lân đã thật sự xuất sắc khi dựng lên tình huống "nhặt vợ" của anh
cu Tràng. Tình huống ấy là cánh cửa khép mở để nhân vật bộc lộ nét đẹp trong
tâm hồn mình. Dường như trong đói khổ người ta dễ đối xử tàn nhẫn với nhau khi
miếng ăn của một người chưa đủ thì làm sao có thể đèo bồng thêm người này người
kia. Trong tình huống ấy, người dễ cấu xé nhau, dễ ích kỷ hơn là vị tha và
người ta rất dễ đối xử tàn nhẫn, làm cho nhau đau khổ. Nhưng nhà văn Kim Lân
lại khám phá ra một điều ngược lại như ở các nhân vật anh cu Tràng, người vợ nhặt
và bà cụ Tứ. Chúng ta từng kinh hãi trước "xác người chết đói ngập đầy
đường", "người lớn xanh xám như những bóng ma", trước
"không khí vẩn lên mùi hôi của rác rưởi và mùi ngây của xác người",
từng ớn lạnh trước "tiếng qua kêu từng hồi thê thiết" ấy nhưng lạ
thay chúng ta thật không thể cầm lòng xúc động trước nghĩa cử cao đẹp mà bình
thường, dung dị ấy của Tràng, bà cụ Tứ và cả người vợ của Tràng nữa. Một anh
thanh niên của cái xóm ngụ cư ấy như Tràng, một con người-một thân xác vạm vỡ,
lực lưỡng mà dường như ngờ nghệch thô kệch và xấu xí ấy lại chứa đựng biết bao
nghĩa tình cao đẹp. "Cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào", vậy mà
Tràng vẫn đèo bòng thêm một cô vợ trong khi anh không biết cuộc đời phía trước
mình ra sao. Tràng đã thật liều lĩnh. Và ngay cô vợ Tràng cũng thế. Hai cái
liều ấy gặp nhau kết tụ lại thành một gia đình. Điều ấy thật éo le và xót
thương vô cùng. Và dường như lúc ấy trong con người của Tràng kia đã bật lên
niềm sống, một khát vọng yêu thương chân thành. Và dường như hắn đang ngầm chứa
một ao ước thiết thực về sự đầm ấm của tình cảm vợ chồng, của hạnh phúc lứa
đôi. Hành động của Tràng dù vô tình, không có chủ đích, chỉ tầm phơ tầm phào
cho vui nhưng điều ấy cũng hé mở cho ta thấy tình cảm của một con người biết
yêu thương, cưu mang, đùm bọc những người đồng cảnh ngộ. Như một lẽ đương
nhiên, Tràng đã rất ngỡ ngàng, hắn đã "sờ sợ", "ngờ ngợ",
"ngỡ ngàng" như không phải nhưng chính tình cảm của vợ chồng ấy lại
củng cố và nhen nhóm ngọn lửa yêu thương và sống có trách nhiệm với gia đình trong
hắn. Tình nghĩa vợ chồng ấm áp ấy dường như làm cho Tràng thay đổi hẳn tâm
tính. Từ một anh chàng ngờ nghệch, thô lỗ, cộc cằn, Tràng đã sớm trở thành một
người chồng thật sự khi đón nhận hạnh phúc của gia đình. Hạnh phúc ấy như một
cái gì đó cứ "ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng tựa hồ như có bàn tay vuốt
nhẹ sống lưng". Tình yêu, hạnh phúc ấy khiến "trong một lúc Tràng
dường như quên đi tất cả, quên cả đói rét đang đeo đuổi, quên cả những tháng
ngày đã qua". Và Tràng đã ước ao hạnh phúc. Mạch sống của một người đàn
ông trong Tràng đã trở dậy. Hắn có những thay đổi thật bất ngờ nhưng rất hợp
logic. Những thay đổi ấy không gì khác ngoài tâm hồn đôn hậu, chất phác và giàu
tình yêu thương hay sao? Trong con người của Tràng khi trở dậy sau khi chào đón
hạnh phúc ấy thật khác lạ. Tràng không là anh Tràng ngày trước nữa mà giờ đây
đã là một người con có hiếu, một người chồng đầy trách nhiệm dù chỉ trong ý
nghĩ. Thấy mẹ chồng nàng dâu quét tước nhà cửa, hắn đã bừng bừng thèm muốn một
cảnh gia đình hạnh phúc. "Hắn thấy hắn yêu thương căn nhà của hắn đến lạ
lùng", "hắn thấy mình có trách nhiệm hơn với vợ con sau này".
Hắn cũng xăm xắn ra sân dọn dẹp nhà cửa. Hành động cử chỉ ấy ở Tràng đâu chỉ là
câu chuyện bình thường mà đó là sự biến chuyển lớn. Chính tình yêu của người
vợ, tình mẹ con hòa thuận ấy đã nhen nhóm trong hắn ước vọng về hạnh phúc, niềm
tin vào cuộc sống sẽ đổi thay khi hắn nghĩ đến đám người đói và lá cờ đỏ bay
phấp phới. Rồi số phận, cuộc đời của hắn, của vợ hắn và cả người mẹ của hắn nữa
sẽ thay đổi. Hắn tin thế.
Nạn đói ấy không
thể ngăn cản được ánh sáng của tình người. Đêm tối ấy rồi sẽ qua đi để đón chờ
ánh sáng của cuộc sống tự do đang ở phía trước trước sức mạnh của cách mạng.
Một lần nữa, Kim Lân không ngần ngại gieo rắc hạnh phúc, niềm tin ấy trong các
nhân vật của mình. Người vợ nhặt không phải ngẫu nhiên xuất hiện trong thiên
truyện. Thị xuất hiện đã làm thay đổi cuộc sống của xóm ngụ cư nghèo nàn, tăm
tối ấy, đã làm cho những khuôn mặt hốc hác, u tối của mọi người rạng rỡ hẳn
lên. Từ con người chao chát chỏng lỏn đến cô vợ hiền thục, đảm đang là một quá
trình biến đổi. Điều gì làm thị biến đổi như thế? Đó chính là tình người, là
tình thương yêu. Thị tuy theo không Tràng về chỉ qua bốn bát bánh đúc và hai câu
nói tầm phơ tầm phào của Tràng nhưng chúng ta không khinh miệt thị. Nếu có
trách thì chỉ có thể hướng vào xã hội thực dân phong kiến kia bóp nghẹt quyền
sống con người. Thị xuất hiện không tên tuổi, quê quán, trong thư thế "vân
vê tà áo đã rách bợt", điệu bộ trông thật thảm hại nhưng chính con người
lại gieo mầm sống cho Tràng, làm biến đổi tất cả, từ không khí xóm ngụ cư đến
không khí gia đình. Thị đã đem đến một luồng sinh khí mới, sinh khí ấy chỉ có
được khi trong con người thị dung chứa một niềm tin, một ước vọng cao cả vào sự
sống, vào tương lai. Thị được miêu tả khá ít song đó lại là nhân vật không thể
thiếu đi trong tác phẩm. Thiếu thị, Tràng vẫn chỉ là anh Tràng của ngày xưa, bà
cụ Tứ vẫn lặng thầm trong đau khổ, cùng cực. Kim Lân cũng thật thành công khi
xây dựng nhân vật này để góp thêm tiếng lòng ca ngợi sức sống của vẻ đẹp tình
người, niềm tin ở cuộc đời phía trước trong những con người đói khổ ấy. Và thật
ngạc nhiên, khi nói về ước vọng ở tương lai, niềm tin vào hạnh phúc, vào cuộc
đời người ta dễ nghĩ đến tuổi trẻ như Tràng và người vợ nhưng Kim Lân lại khám
phá ra một nét độc đáo vô cùng: tình cảm, ước vọng ở cuộc đời ấy lại được tập
trung miêu tả khá kỹ ở nhân vật bà cụ Tứ. Đến nhân vật này, Kim Lân tỏ rõ ngòi
bút vững vàng, già dặn của mình trong bút pháp miêu tả tâm lý nhân vật. Bà cụ
Tứ đến giữa câu chuyện mới xuất hiện nhưng nếu thiếu đi nhân vật này, tác phẩm
sẽ không có chiều sâu nhân bản. Đặt nhân vật bà cụ Tứ vào trong tác phẩm, Kim
Lân đã cho chúng ta thấy rõ hơn ánh sáng của tình người trong nạn đói. Bao giờ
cũng thế, các nhà văn muốn nhân vật nổi bật cá tính của mình thường đặt nhân
vật vào một tình thế thật căng thẳng. Ở đó dĩ nhiên phải có sự đấu tranh không
ngừng không những giữa các nhân vật mà độc đáo hơn là ngay chính trong nội tâm
của nhân vật ấy. Bà cụ Tứ là một điển hình. Việc Tràng lấy vợ đã gây một chấn
động lớn trong tâm thức người mẹ nghèo vốn thương con ấy. Bà ngạc nhiên ngỡ
ngàng trước sự xuất hiện của một người đàn bà trong nhà mình mà lâu nay và có
lẽ chưa bao giờ bà nghĩ đến. Hết ngỡ ngàng, ngạc nhiên bà cụ đã "cúi đầu
nín lặng". Cử chỉ, hành động ấy chất chứa bao tâm trạng. Đó là sự đan xen
lẫn lộn giữa nổi tủi cực, nỗi lo và niềm vui nỗi buồn cứ hòa lẫn vào nhau khiến
bà thật căng thẳng. Sau khi thấu hiểu mọi điều bà nhìn cô con dâu đang
"vân vê tà áo đã rách bợt" mà lòng đầy thương xót. Bà thiết nghĩ
"người ta có gặp bước khó khăn này, người ta mới lấy đến con mình, mà con
mình mới có được vợ". Và thật xúc động bà cụ đã nói, chỉ một câu thôi nhưng
sâu xa và có ý nghĩa vô cùng: "Thôi, chúng mày phải duyên phải kiếp với
nhau u cũng mừng lòng".
Đói khổ đang vây
lấy gia đình bà, cuộc sống của bà sẽ ra sao khi mình đang ngấp nghé trước vực
thẳm của cái chết. Nhưng trong tâm thức người mẹ nghèo ấy, đói khổ không phải
là vật cản lớn nữa. Đói rét thật nhưng trong lòng mà cụ vẫn sáng lên tấm lòng
yêu thương chân thành. Bà thương con, thương dâu và thương cho chính bản thân
mình. Bà cụ Tứ từ những nỗi lo, nỗi tủi cực về gia cảnh vẫn không ngừng bùng
cháy lên ngọn lửa của tình người. Bà đã giang tay đón nhận đứa con dâu lòng đầy
thương xót, trong tủi cực nhưng vẫn ngầm chứa một sức sống thật mãnh liệt.
Chính ở người mẹ nghèo khó ấy, ngọn lửa của tình người, tình thương yêu nhân
loại ấy bùng cháy mạnh mẽ nhất. Trong bóng tối của đói nghèo đang hùng hổ vây
quanh, bà lão vẫn gieo vào lòng những con mình niềm tin về cuộc sống. Bà nhắc
đến việc Tràng nên chuẩn bị một cái phên nuôi gà, rồi việc sinh con đẻ cái, bà
lão nói toàn truyện vui trong bữa cơm ngày đói thật thảm hại. Bà đã đón nhận
hạnh phúc của các con để tự sưởi ấm lòng mình. Đặc biệt chi tiết nồi cám ở cuối
thiên truyện thể hiện khá rõ ánh sáng của tình người. Nồi chè cám nghẹn bứ cổ
và đắng chát ấy lại là món quà của một tấm lòng đôn hậu chất chứa yêu thương.
Bà lão "lễ mễ" bưng nồi chè và vui vẻ giới thiếu: "Chè khoán
đây. Ngon đáo để cơ". Ở đây nụ cười đã xen lẫn nước mắt. Bữa cơm gia đình
ngày đói ở cuối thiên truyện không khỏi làm chạnh lòng chúng ta, một nỗi xót
thương cay đắng cho số phận của họ song cũng dung chứa một sự cảm phục lớn ở
những con người bình thường và đáng quý ấy.
Kim Lân bằng
nghệ thuật viết văn già dặn, vững vàng đã đem đến một chủ đề mới trong đề tài
về nạn đói. Nhà văn đã khẳng định ánh sáng của tình người thật thành công ở ba
nhân vật. Điều làm chúng ta trân trọng nhất chính là vẻ đẹp của tình người và
niềm hi vọng vào cuộc sống một cách mạnh mẽ nhất ở những thân phận nghèo đói,
thảm hại kia. Ba nhân vật: Tràng, vợ Tràng và bà cụ Tứ cùng những tình cảm, lẽ
sống cao đẹp của họ chính là những điểm sáng mà Kim Lân từng trăn trở trong
thời gian dài để thể hiện sao cho độc đáo một đề tài không mới. Tác phẩm đã thể
hiện thành công nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật, khả năng dựng truyện và dẫn
truyện của Kim Lân-một nhà văn được đánh giá là viết ít nhưng tác phẩm nào cũng
có giá trị là vì lẽ đó.
"Cái đẹp
cứu vớt con người" (Đôxtôiepki). Vâng, "vợ nhặt" của nhà văn Kim
Lân thể hiện rõ sức mạnh kì diệu ấy. Ánh sáng của tình người, lòng tin yêu vào
cuộc sống là con nguồn mạch giúp Kim Lân hoàn thành tác phẩm. Ông đã đóng góp
cho văn học Việt Nam
nói chung, về đề tài nạn đói nói riêng một quan niệm mới về lòng người và tình
người. Đọc xong thiên truyện, dấu nhấn mạnh mẽ nhất trong tâm hồn bạn đọc chính
là ở điểm sáng tuyệt vời ấy.
Câu 3:
Tố Hữu, một nhà
thơ chiến sĩ, một người thư ký trung thành của thời đại ấy đã cùng hành trình
làm cách mạng tiếp cận với thơ ca. Thơ ca đối với ông không ngoài mục đích
chính trị, phục vụ cho lý tưởng của Đảng, của cách mạng. Trong nguồn mạch về
các đề tài chính trị của Đất nước ấy, Tố Hữu đã tìm về với quá khứ lịch sử của
cha ông, một thế hệ hôm nay vọng về thế hệ cha ông xưa để đồng cảm, thấu hiểu,
để tìm nguồn sinh lực mới cất bước cho cuộc kháng chiến hôm nay. Một trong
những bài thơ tiêu biểu cho đề tài này không thể không kể đến bài thơ
"Kính gửi cụ Nguyễn Du", trích trong tập "Ra trận".
Tháng 11/1965
khi giặc Mỹ bắn phá ác liệt, nhà thơ có dịp qua quê hương của Nguyễn Du và nhân
kỷ niệm đúng hai trăm năm ngày sinh của Người, Tố Hữu xúc động viết lên bài thơ
này. Bài thơ đã thể hiện một cách cảm nhận, suy nghĩ và đánh giá của Tố Hữu
tiêu biểu cho thế hệ hôm nay nhìn về quá khứ lịch sử của cha ông xưa để từ đó
khẳng định cuộc kháng chiến chống Mỹ hôm nay của dân tộc.
Trong tiếng vọng
của tấc lòng tri âm tri kỷ ấy, Tố Hữu đã thốt lên:
Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày
Hỡi Người xưa của ta nay
Khúc vui xin lại so dây cùng Người!
Bài thơ trừ bốn
câu thơ đầu và cuối, tất cả có năm khổ thơ với ba cặp lục bát tương xứng. Bằng
hình thức tập Kiều nhuần nhuyễn, sáng tạo, ngôn ngữ trong sáng, giản dị, giàu
hình ảnh, những so sánh bất ngờ... ấy đã diễn tả thật thành công tấm lòng của
một người con cúi mình trước đại thi hào vĩ đại của dân tộc Nguyễn Du, một thi
hào kỳ tài ấy đã chắp bút lên "Truyện Kiều", một công trình đồ sộ và
có giá trị thật lớn lao, góp phần tăng giá trị đạo đức, nhận thức vào kho tàng
văn học Việt Nam. Cảm khái và ngưỡng mộ trước tài năng ấy kết hợp với một tấm
lòng khát vọng tìm về với quá khứ xưa, Tố Hữu đã viết:
Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu
Tố Hữu đã ca
ngợi giá trị nhân bản của tiếng thơ Nguyễn Du, một tiếng thơ vang động đến hồn
thiêng sông núi, đến tạo vật muôn loài. Bằng cách sử dụng lối so sánh, ẩn dụ
tài tình, nhà thơ đã nâng cao tầm vóc, giá trị của thơ ca Nguyễn Du. Ông đã ví
tiếng thơ ấy là "non nước" vọng về từ ngàn năm trước, của thời gian
xa xưa, của quá khứ. Tiếng thơ ấy vọng về đây trong niềm tự hào, hân hoan, đón
nhận của một tấm lòng hậu thế muốn đền đáp tấm lòng cha ông xưa. Nỗi niềm ấy,
tình cảm ấy thật đáng ngưỡng vọng. Hai câu thơ không những khái quát được tầm
vóc, giá trị to lớn của tài năng Nguyễn Du mà còn thể hiện sâu sắc tình cảm cao
đẹp của Tố Hữu- thế hệ hôm nay ngưỡng vọng về quá khá của cha ông.
Lối thơ ấy,
tiếng lòng hân hoan Tố Hữu lại tiếp tục rộng mở vươn tới những giá trị vĩnh
hằng khác:
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày
Nghìn năm là
khoảng thời gian của hồi tưởng, của ngưỡng vọng, của khát vọng mãnh liệt, của
tấc lòng tri kỷ biết ơn của thế hệ hôm nay. Đó còn là khoảng thời gian của thế
hệ hôm nay trả lời cho nỗi đau lịch sử của cha ông trong quá khứ.. Một lần nữa
cảm hứng ngợi ca chắp bút cho Tố Hữu cất tiếng lòng tự hào trong khúc hát tràn
đầy hân hoan, hứng khởi, trong sự ngưỡng vọng trước một thiên tài. Tiếng thơ
của Nguyễn Du được ví như "tiếng mẹ", mà "tiếng mẹ" thì gần
gũi, thiết tha quá. Đó là lời ru nhẹ nhàng ân tình, chan chứa tình yêu thương
và trong ấy gửi gắm bao mơ ước thật cao đẹp. Và vì thế tiếng thơ của Nguyễn Du
là tiếng ru của mẹ ân tình, ngọt ngào thổi vào lòng bao thế hệ có sức mạnh thật
lớn lao. Tình cảm ấy, khúc hát ru ân tình ấy là lời nhắc nhở, thủ thỉ cho con-
thế hệ hôm nay vững bước trưởng thành.
Tiếng lòng đồng
vọng của cõi xưa nhập cùng thế hệ hôm nay để con lại vang lên lời ca tự hào:
Hỡi người xưa của ta nay
Khúc vui xin lại so dây cùng Người!
Trên trục kết
cấu "xưa-nay", "con-Người" cùng vang lên tiếng lòng khát
khao tìm kiếm tri âm. "Con" sẽ cùng "Người" hát tiếp khúc
tráng ca ấy chào đón cách mạng. Chữ "cùng" đã thể hiện đầy đủ ước
vọng của chúng con và Người. Tình cảm ấy, nghĩa cử ấy thật đáng tự hào và trân
trọng.
Sáu câu thơ, ba
cặp lục bát song hành ấy là tình cảm, tiếng lòng của chúng con thế hệ hôm nay
đáp lời quá khứ. Đó cũng là lời hứa chân thành nhất của thế hệ hôm nay cùng
ngân vang theo nhịp đập của quá khứ.
Bằng lối tập
Kiều nhuần nhuyễn, sử dụng hình ảnh có tính gợi hình, giọng điệu ân tình, ngọt
ngào, đậm chất dân tộc, khổ thơ đã thể hiện trọn vẹn phong cách thơ Tố Hữu:
khuynh hướng thơ trữ tình - chính trị, một giọng điệu tâm tình ngọt ngào và đậm
đà tính dân tộc. Khổ thơ khép lại nhưng lại mở ra một chân trời mới, tương lai
mới trong hành trình chống Mỹ hôm nay:
Sông Lam nước chảy bên đồi
Bỗng nghe trống giục ba hồi gọi quân./.
Nguyễn Thị Thu Trang
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments: