Đề thi tuyển sinh ĐH khối D năm 2006
Đề thi tuyển sinh ĐH khối D năm 2006
Bài làm
Câu 1 (2đ):
Anh (chị) hãy trình bày hoàn cảnh ra đời bài
thơ Việt Bắc của Tố Hữu. Nêu những đặc điểm nghệ thuật của tác phẩm đó (đoạn
trích được học).
Cuộc kháng chiến
chống Pháp kết thúc thắng lợi, hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết. Tháng 10 năm
1954 cơ quan Trung ương của Đảng và Chính phủ rời căn cứ Việt Bắc về thủ đô Hà
Nội. Trong không khí buổi tiễn đưa mang tầm vóc lịch sử ấy, Tố Hữu đã xúc động
viết bài thơ “Việt Bắc”. “Việt Bắc” trở thành khúc hát ân tình thuỷ chung giữa
người miền ngược với người miền xuôi, giữa nhân dân với Đảng, giữa cách mạng
với Bác Hồ. “Việt Bắc” là bài thơ có giá trị, để viết nên một bài thơ hay như
thế, Tố Hữu đã sử dụng những hình thức nghệ thuật:
- Sử dụng thể
thơ dân tộc, thơ lục bát.
- Những hình ảnh
so sánh ví von, gần với lời ăn tiếng nói của dân tộc.
- Giọng văn tâm
tình, ngọt ngào, tha thiết.
- Ngôn ngữ giàu
nhạc điệu như những câu hát giao duyên. Câu hỏi lời đáp giữa hai nhân vật Ta và
Mình trong bài thơ thực chất chỉ là một. Đó là sự phân thân, hoá thân của tác
giả để cảm xúc được thể hiện một cách tự nhiên, tha thiết.
Câu 2 (5đ): Phân tích hình tượng sóng trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh. Anh (chị)
cảm nhận được gì về vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu qua hình tượng
này?
“Sóng” được in
trong tập “Hoa dọc chiến hào”, xuất bản năm 1968 của nữ nhà thơ tình nổi tiếng
Xuân Quỳnh. Bài thơ nói về tâm trạng, tình yêu mãnh liệt của người con gái khi
yêu. Hãy đến với bài thơ bằng nhạc điệu, bài thơ là âm điệu của một cõi lòng bị
sóng khuấy động, đang rung lên đồng điệu đồng nhịp với sóng biển. Rạo rực đến
xôn xao, khát khao đến khắc khoải, có một hình tượng sóng được vẽ lên bằng âm
điệu, một âm điệu dập dồn, chìm nổi, miên man như hơi thở chạy suốt cả bài.
Sắc điệu trữ
tình của bài thơ được gợi lên từ hình tượng sóng. Cả bài thơ là những con sóng
tâm tình xôn xao trong lòng người con gái đang yêu khi đứng trước biển ngắm
nhìn những con sóng vô hồi, bất tận. Sóng là một hình tượng ẩn dụ, đó là sự hoá
thân của cái tôi trữ tình của nữ sĩ, lúc thì hoà nhập, lúc sự phân thân của
“em” - người con gái đang yêu một cách say đắm. Sóng đã khơi gợi một hồn thơ
phong phú, hồn nhiên, sôi nổi. Thông qua hình tượng sóng, Xuân Quỳnh đã có một
cách nói rất hay để diễn tả tâm trạng của người con gái.
Sóng biến hoá, sóng vỗ liên hồi,
triền miên và bất tận:
“Dữ dội và
dịu êm
ồn ào và lặng
lẽ”
Trạng thái của sóng cũng là tâm
trạng khi yêu, là khát vọng to lớn, mạnh mẽ về một tình yêu chân thành. Hành
trình của sóng từ sông ra đại dương:
“Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”
nơi mênh mông dạt dào, có đến nơi
biển rộng trời cao sóng mới được vẫy vùng, mới thực sự tìm thấy mình trong sức
sống mạnh mẽ với những khát khao to lớn. Sóng được làm biểu tượng của tình yêu.
Miêu tả sóng biến hoá là cũng để nói lên cái phức tạp, đa dạng, khó hiểu của
tình yêu. Cũng giống như sóng biển, tình yêu là một hiện tượng kỳ diệu của con
người. Con sóng “ngày xưa” và con sóng “ngày sau” vẫn thế - triền miên, bất
tận. Cũng như tình yêu mãi mãi là khát vọng của tuổi trẻ, của đôi lứa, cuả anh
và em:
“Ôi con sóng ngày
xưa
Và ngày sau
vẫn thế
Nỗi khát vọng
tình yêu
Bồi hồi trong
ngực trẻ” .
Con sóng tìm đến
biển, đến đại dương là để tự hiểu mình. Cũng như em “khát” được đến bên anh,
đến với một tình yêu đẹp để hiểu rõ hơn về tâm hồn em về con người đích thực
của em. Người con gái hỏi sóng hay đang tự hỏi chính mình:
“Sóng bắt đầu
từ gió
Gió bắt đầu
từ đâu
Em cũng không
biết nữa
Khi nào ta
yêu nhau”
Cái giây phút
giao duyên của đôi lứa. “Khi nào ta yêu nhau” tìm được một câu trả lời thật
khó, bởi tình yêu là một hiện tượng, một thứ tình cảm khó có thể cắt nghĩa
được. Bởi vậy trong bài thơ tình số 21 của thi hào Tagor đã viết rằng :
“Trái tim anh
cũng ở gần em như chính đời em vậy
Nhưng chẳng
bao giờ em biết trọn nó đâu”
Câu thơ “khi nào ta yêu nhau” đã
diễn tả đúng nỗi niềm điển hình của những trai gái đang sống trong tình yêu
đẹp. Sóng vỗ “dữ dội - dịu êm” , “ồn ào - lặng lẽ”, sóng “dưói lòng sâu” “sóng”
trên mặt nước”, sóng nhớ bờ, đó là biểu hiện của tình yêu và nỗi nhớ. Yêu chân
thành tha thiết, nhớ bồi hồi triền miên. Nỗi nhớ ấy day dứt, dày vò, choán đầy
cả không gian, thấm trong chiều sâu, bề rộng, trải trong chiều dài thời gian:
“Con sóng
dưới lòng sâu
Con sóng trên
mặt nước
Ôi con sóng
nhớ bờ
Ngày đêm
không ngủ được”
Thật tự nhiên và thơ mộng, con
sóng nhớ bờ nên ngày đêm sóng vỗ, sóng thao thức với thời gian và đại dương.
Cũng giống như bên đợi thuyền, thuyền nhớ bến, lúc nào lòng người con gái cũng
bồi hồi nhớ thương:
“Lòng em nhớ
đến anh
Cả trong mơ
còn thức”
“Còn thức” tức là lúc nào em cũng
nhìn thấy rõ hình bóng anh, ánh mắt anh ... Một tình yêu cuồng nhiệt, say mê.
Con sóng khao khát được đến bờ để được vỗ về, ve vuốt:
“Hôn thật khẽ
thật êm
Hôn êm đềm
mãi mãi”
(Xuân Diệu)
Cũng như “em”
muốn được gần bên anh, được hoà nhịp vào trong tình yêu với anh. Tình yêu của
người con gái thật mãnh liệt, nồng nàn. Sóng xa vời cách trở vẫn tìm được tới
bờ, cũng như anh và em sẽ vượt qua mọi khó khăn để đến với nhau, để sống trong
hạnh phúc trọn vẹn của lứa đôi.
“Ở ngoài kia
đại dương
Trăm ngàn con
sóng nhỏ
Con nào cũng
tới bờ
Dù muôn vời
cách trở”
Người con gái đã bày tỏ lòng mình
một cách chân thành, say đắm, thắm thiết. Chân thật và thuỷ chung là đặc tính
của tình yêu:
“Dẫu xuôi về
phương Bắc ...
Hướng về anh
một phương”.
Sóng đã bày tỏ
nỗi lòng của người con gái, khát vọng được sống hết mình trong một tình yêu
đẹp, sắt son thuỷ chung. Người ta thường nói xuôi vào Nam , ngược ra
Bắc; nhưng ở đây, trong nỗi nhớ chất đầy nhà thơ lại dùng ngược lại. Từ đó nhà
thơ đã nói đến nỗi nhớ bất chấp vạn vật, khoảng cách, tình yêu là sự gặp gỡ
giữa hai tâm hồn không có giới hạn.
Cuối cùng sóng
đã nói hộ nhà thơ nỗi khát vọng được sống trọn vẹn trong tình yêu. Tình yêu lứa
đôi đẹp đẽ, nồng nàn như trăm ngàn con sóng nhỏ giữa đại dương mênh mông, muốn
được hoà nhịp vào biển lớn của tình yêu cộng đồng:
“Làm sao được
tan ra
Thành trăm
con sóng nhỏ
Giữa biển lớn
tình yêu
Để ngàn năm
còn vỗ” .
Cả bài thơ, nếu
kể đến nhan đề, thì tác giả đã mười một lần nhắc đến từ “sóng”. Sóng vỗ như tâm
tình xôn xao. Sóng cho ta nhiều ấn tượng về âm điệu của sóng, cũng như giọng
điệu tâm tình, nhịp điệu của bài thơ. Thơ hồn nhiên, liền mạch về cảm xúc,
trong sáng trong cách diễn đạt của tác giả. Sóng vỗ trên đại dương mênh mông
cũng chính là sóng vỗ trong lòng người con gái.
Từ hình tượng
“sóng” Xuân Quỳnh cho ta thấy rõ vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu.
Với tình yêu chân thành, thắm thiết, người phụ nữ muốn sống hết mình, sống trọn
vẹn trong tình yêu đẹp. Yêu là nhớ ngày mong đêm, người phụ nữ khát khao được
hoà nhập gần gũi trong tình yêu ấy. Họ yêu thật nồng nàn, say đắm, thủy chung !
Xuân Quỳnh viết
bài thơ này vào những năm 1967, khi cuộc kháng chiến của nhân dân miền Nam ở
vào giai đoạn ác liệt, khi thanh niên trai gái ào ào ra trận “xẻ dọc Trường Sơn
đi cứu nước”, khi sân ga, bến nước, gốc đa, sân trường diễn ra những cuộc chia
ly màu đỏ. Cho nên có đặt bài thơ vào trong hoàn cảnh ấy ta mới càng thấy rõ
nỗi khát khao của người con gái trong tình yêu.
“Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được” .
Đọc xong bài thơ
“Sóng” ta càng ngưỡng mộ hơn những con người phụ nữ Việt Nam , những con
người luôn thuỷ chung, luôn sống hết mình vì một tình yêu. Xuân Quỳnh xứng đáng
là một nhà thơ nữ của tình yêu lứa đôi, bà đã làm phong phú hơn cho nền thơ
nước
Câu 3.a. Theo chương trình PTTH không phân ban (3 đ)
Phân tích hình tượng Cây xà nu trong truyện
ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành. Nhận xét ngắn gọn về nghệ thuật miêu tả
cây xà nu của nhà văn.
Nguyễn Trung
Thành là nhà văn có duyên nợ gắn bó với mảnh đất Tây Nguyên. Qua hai cuộc kháng
chiến cùng vào sinh ra tử với những người dân nơi đây đã cung cấp cho Nguyễn
Trung Thành một vốn hiểu biết vô cùng sâu rộng về mảnh đất âm vang rộn tiếng
cồng chiêng trong mùa lễ hội, nơi có những người con trung dũng, kiên cường.
Nếu trong kháng chiến chống Pháp, Nguyễn Trung Thành - bút danh Nguyên Ngọc nổi
tiếng cùng “Đất nước đứng lên”; thì trong những năm kháng chiến chống Mỹ, đặc
biệt là những năm 1965 khi cuộc kháng chiến của nhân dân miền Nam đang diễn ra
gay go ác liệt thì Nguyễn Trung Thành cho ra mắt người đọc truyện ngắn “Rừng xà
nu”. Tác phẩm này đã là một bản hùng ca, ca ngợi cuộc sống và con người Tây
Nguyên trong cuộc chiến tranh vĩ đại. Và nổi bật hơn cả trong tác phẩm chính là
hình tượng cây xà nu.
Cây xà nu là một
hình tượng nhân vật trung tâm trong truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung
Thành. Xuyên suốt trong tác phẩm ta bắt gặp những cánh rừng xà nu nối tiếp nhau
chạy đến chân trời. Cây xà nu là một loài cây quen thuộc, có mặt trong cuộc
sống hàng ngày của người dân Tây Nguyên. “Củi xà nu cháy trong mỗi bếp lửa gia
đình, khói xà nu nhuộm bảng đen cho con trẻ học chữ, đuốc xà nu rọi sáng sân
nhà Ưng trong những đêm lễ hội...”. Tất cả mọi hoạt động dù lớn dù nhỏ của
người dân Tây Nguyên đều có sự góp mặt của cây xà nu. Sự sống của dân làng Xô
Man đều gắn liền với những cánh rừng xà nu. Khi Nguyễn Trung Thành viết : “Làng
ở trong tầm đại bác của đồn giặc, chúng nó bắn đã thành lệ, ngày hai lần, hoặc
buổi sáng sớm và xế chiều, hoặc đứng bóng và xẩm tối, hoặc nửa đêm và trở gà
gáy. Hầu hết đạn đại bác của đồn giặc đều rơi vào những ngọn đồi xà nu, cạnh
con nước lớn”, nhà văn đã phản ảnh không khí căng thẳng của thời đại, gợi lên
sự đối mặt quyết liệt giữa sự sống và cái chết. Nổi bật trên nền bối cảnh ấy,
Nguyễn Trung Thành đã đi sâu miêu tả những đặc điểm nổi bật của câu xà nu. Cũng
như bao loài cây khác, cây xà nu là một loài cây ham ánh sáng và khí trời
“trong rừng ít có loài cây nào sinh sôi nảy nở khoẻ đến vậy... ít có loài cây
nào ham ánh sáng đến thế” cũng có nghĩa là ham sống, khao khát muốn được vươn
lên giữa bầu trời cao rộng.
Thế nhưng trong
những năm tháng chiến tranh ác liệt ấy, cũng như bao cánh rừng khác của Việt Nam , rừng xà nu
đã bị tàn phá rất dữ dội “Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào là không
bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình đổ ào ào như một trận
bão; ở chỗ vết thương nhựa ứa ra tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè
gay gắt rồi dần dần bầm lại đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn”. Tuy vậy,
bất chấp mọi sự tàn phá huỷ diệt của chiến tranh, cây xà nu vẫn vươn lên với
một sức sống mãnh liệt “cạnh cây mới ngã gục đã có bốn, năm cây con mọc lên,
ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”. Tư thế vươn lên mạnh
mẽ ấy của cây xà nu như để thách thức với bom đạn của chiến tranh “đố chúng nó
giết được cây xà nu đất ta”. Sức sống mãnh liệt đã giúp những cánh rừng xà nu
vươn lên trong một màu xanh, hiện lên hiên ngang, kiêu dũng như một tráng sĩ
“cứ thế hai ba năm sau, rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho dân
làng Xô man”.
Bằng nghệ thuật
so sánh, nhân hoá, ẩn dụ, Nguyễn Trung Thành đã dựng lên thật thành công và rõ
nét, ấn tượng về hình tượng cây xà nu. Không dừng lại ở đó, Nguyễn Trung Thành
còn đặt hình tượng cây xà nu vào trong quan hệ đối chiếu sóng đôi với con người
mảnh đất Tây Nguyên. Nếu cây xà nu là một loại cây ham ánh sáng và khí trời,
thì người dân Tây Nguyên yêu tự do, tin vào Đảng, đi theo bước chân cách mạng
như muôn cây vẫn hướng vào ánh sáng mặt trời. Nếu cây xà nu bị tàn phá, huỷ
diệt bởi đạn bom, khói lửa thì những người dân Tây Nguyên phải chịu bao đau
thương mất mát do chính kẻ thù gây ra. Bao nhiêu người bị giặc giết chết như
những cây xà nu bị chặt đứt ngang nửa thân mình, bao nhiêu người còn sống mà
phải mang trong mình bao nỗi thương đau. Bằng cách miêu tả hình ảnh cây và
người trong quan hệ sóng đôi như thế, Nguyễn Trung Thành đã khắc sâu tội ác dã
man của kẻ thù để qua đó tác giả giúp ta hình dung rõ hơn những thảm cảnh dân
ta phải chịu do bọn giặc gây ra.
Cũng giống như
những cánh rừng quê hương, như những con người Việt Nam vẫn ý thức được rằng:
“Gươm nào chia được
dòng Bến Hải
Lửa nào thiêu được
dãy Trường Sơn
Căm hờn lại giục căm
hờn
Máu kêu trả máu đầu
van trả đầu”
Các thế hệ nhân dân Tây Nguyên đã
thay nhau tiếp nối đứng lên. ánh sáng của niềm tin “Đảng còn thì núi nước này
còn” đã soi đường chỉ lối cho những bước chân đến với cách mạng. Thế hệ này ngã
xuống, thế hệ sau tiếp nối đứng lên; anh Sút bà Nhan bị giặc giết, đi thay họ
tiếp tế nuôi quân đã có T Nú và Mai. Cứ như thế, các thế hệ người Tây Nguyên đã
thay nhau giữ vững ngọn lửa truyền thống, thay nhau giữ vững ý chí đánh giặc
kiên cường, để giữ làng, giữ nước của dân làng Xô man nói riêng và của người Tây
Nguyên nói chung.
Dưới ngòi bút
miêu tả của Nguyễn Trung Thành, cây xà nu hiện lên sừng sững, đồng hành với
những bước đi, cuộc sống của dân làng Xô man. Gắn bó với cánh rừng anh dũng,
kiêu hùng, những người dân Tây Nguyên như được tiếp thêm sức mạnh để đứng lên
chiến đấu. Và gắn bó với con người Tây Nguyên ân tình, thuỷ chung, trung dũng
như thế. Cây xà nu cũng luôn luôn sánh bước cùng họ để họ có cuộc sống bình yên
hơn; để “hầu hết đạn đại bác của đồn giặc đều rơi vào những ngọn đồi xà nu,
cạnh con nước lớn” chứ không nhằm vào những người dân vô tội lầm than.
Cây xà nu là
hình tượng mang đậm chất lý tưởng, tiêu biểu cho phẩm chất, số phận của người
dân Tây Nguyên. Hình tượng cây xà nu trong tác phẩm mang đậm chất sử thi, tính
hào hùng, nó làm rõ chủ đề tư tưởng của truyện ngắn “Rừng xà nu”. Để xây dựng
một hình tượng xà nu như thế, Nguyễn Trung Thành đã sử dụng những câu văn miêu
tả, những từ ngữ, hình ảnh chọn lọc đặc sắc, cùng nghệ thuật so sánh, nhân hoá,
ẩn dụ, giọng văn miêu tả trong tác phẩm rất linh hoạt.
Có đọc “Rừng xà
nu” của Nguyễn Trung Thành ta mới cảm nhận hết vẻ đẹp hình tượng cây xà nu.
Hình tượng này đã góp phần tạo nên một “Rừng xà nu” trọn vẹn, mang đậm giá trị
văn học. Nguyễn Trung Thành đã góp phần làm phong phú thêm cho nền văn học dân
tộc.
Hoàng Thuỳ Nhi
(Đà Nẵng)
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments: